Đề thi học sinh giỏi vòng trường môn Ngữ văn Lớp 10 - Năm học 2018-2019 - Trường THPT Liễn Sơn (Có đáp án)

docx 6 trang thungat 4650
Bạn đang xem tài liệu "Đề thi học sinh giỏi vòng trường môn Ngữ văn Lớp 10 - Năm học 2018-2019 - Trường THPT Liễn Sơn (Có đáp án)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docxde_thi_hoc_sinh_gioi_vong_truong_mon_ngu_van_lop_10_nam_hoc.docx

Nội dung text: Đề thi học sinh giỏi vòng trường môn Ngữ văn Lớp 10 - Năm học 2018-2019 - Trường THPT Liễn Sơn (Có đáp án)

  1. SỞ GD&ĐT VĨNH PHÚC ĐỀ THI HỌC SINH GIỎI VÒNG TRƯỜNG LỚP 10 TRƯỜNG THPT LIỄN SƠN MÔN NGỮ VĂN. NĂM HỌC 2018 – 2019 Đề có 01 trang Thời gian làm bài: 180 phút, không kể thời gian giao đề. Câu 1 (6,0 điểm) DIỆT CỎ DẠI Chuyện xưa kể rằng, có một vị minh sư hướng dẫn các học trò của mình tu tập. Sau một thời gian các học trò nghiên cứu kinh điển sâu sắc, vị minh sư đã gọi cả đám học trò lại và đưa ra một “bài tập” đó là làm sao diệt sạch được đám cỏ dại tại nơi thầy trò đang ngồi. Người học trò đầu tiên cho rằng, cần đốt lửa cho cháy hết đám cỏ. Người khác quả quyết, cần rắc vôi lên để cỏ dại chết. Trò thứ ba đưa ra phương án lấy xẻng xúc đám cỏ đổ đi. Trò khác lại quả quyết, phải diệt tận gốc, nhổ sạch cỏ đi. Các phương án đều có vẻ rất có lý nhưng vị minh sư lại lắc đầu và nói: Dù làm tất cả những cách đó thì sau một trận mưa các con vẫn thấy cỏ mọc lên xanh tốt như thường. Cách chúng ta muốn diệt cỏ là phải trồng lên đó những luống rau, hàng ngô, bãi khoai. Chỉ khi chúng ta dùng mảnh đất đó vào mục đích tạo ra những mùa màng tốt tươi, với những vụ thu hoạch thì mới hết được cỏ. Suy nghĩ của anh/chị về bài học cuộc sống được gửi gắm qua câu chuyện. Câu 2 (14,0 điểm) Trong tác phẩm Thơ về thơ, Chế Lan Viên viết: Người diễn viên ấy đóng trăm vai vai nào cũng giỏi Chỉ một vai không đóng nổi Vai mình! Anh (chị) hiểu như thế nào về ý kiến trên? Hãy làm sáng tỏ vấn đề mà Chế Lan Viên đề cao qua bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi và Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Hết Thí sinh không được sử dụng tài liệu. Cán bộ coi thi không giải thích gì thêm. Họ tên thí sinh: ; Số báo danh:
  2. SỞ GD & ĐT VĨNH PHÚC ĐÁP ÁN ĐỀ THI HSG CẤP TRƯỜNG LỚP 10 TRƯỜNG THPT LIỄN SƠN MÔN NGỮ VĂN. NĂM HỌC 2018 – 2019 Đáp án có 05 trang Thời gian làm bài: 180 phút, không kể thời gian giao A. YÊU CẦU CHUNG - Giám khảo cần nắm được nội dung trình bày trong bài làm của thí sinh, tránh đếm ý cho điểm. Vận dụng linh hoạt hướng dẫn chấm, sử dụng nhiều mức điểm một cách hợp lí, khuyến khích những bài viết có cảm xúc, sáng tạo. - Học sinh có thể làm bài theo nhiều cách nhưng nếu đáp ứng những nhu cầu cơ bản của đề, diễn đạt tốt vẫn cho điểm tối đa. - Điểm bài thi làm tròn đến 0,25 điểm. B. YÊU CẦU CỤ THỂ Câu 1. (6,0 điểm) a. Về kĩ năng: - Biết cách làm bài văn nghị luận xã hội, bố cục rõ ràng, lập luận chặt chẽ, vận dụng tốt các thao tác lập luận, dẫn chứng tiêu biểu, chọn lọc. - Bài viết trong sáng, mạch lạc, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp. b. Về kiến thức: Học sinh có thể bày tỏ những suy nghĩ khác nhau, nhưng cần đảm bảo những ý cơ bản sau: Ý Nội dung Điểm 1 Phân tích câu chuyện để rút ra nội dung, ý nghĩa 1,5 - Cỏ dại: cỏ mọc hoang, không cần chăm sóc vun trồng nhưng dễ sống, dễ lây lan -> biểu tượng cho cái xấu, cái ác. - Luống rau, hàng ngô, bãi khoai: do bàn tay con người vun trồng, chăm sóc mới có thể tốt tươi và đem lại lợi ích cho đời -> biểu tượng cho cái đẹp, cái thiện. - Trồng luống rau, hàng ngô, bãi khoai trên đám cỏ dại là cách diệt cỏ tận gốc: dùng cái đẹp, cái thiện để đẩy lùi cái xấu, cái ác. => Câu chuyện đem đến lời khuyên về cách tiêu diệt cái xấu, cái ác đúng đắn, hiệu quả. 2 Bàn luận, mở rộng vấn đề 3,5 - Cuộc sống vẫn luôn tồn tại hai mặt đối lập, cả cái xấu, cái ác và cái thiện, cái đẹp. Nhưng xu hướng của con người là luôn hướng về cái đẹp, cái thiện, tìm cách hạn chế, tiêu diệt cái xấu, cái ác. - Có nhiều cách để hạn chế và diệt trừ cái ác trong đời sống như: dùng pháp luật, dùng bạo lực nhưng tất cả những giải pháp đó chỉ mang tính
  3. nhất thời, nếu không có cách nào khác hiệu quả, lâu dài hơn để giải quyết tận gốc vấn đề, thay đổi bản chất của cái xấu, cái ác thì nó sẽ vẫn tái diễn. - Cách tốt nhất để loại trừ cái xấu cái ác trong đời sống xã hội là phải thay thế cái xấu, cái ác bằng cái đẹp, cái thiện. Vì: + Nếu cái xấu, cái ác và cái đẹp, cái thiện vẫn cùng tồn tại trong đời sống. Nếu cái đẹp, cái thiện nhỏ, yếu sẽ bị cái ác lấn át. Nhưng khi cái đẹp, cái thiện lớn mạnh thì cái xấu, cái ác sẽ không thể ngang nhiên hoành hành, không còn đất để tồn tại, phải tự chùn bước. + Khi cái đẹp, cái thiện được nhân rộng, nó sẽ đủ sức mạnh để đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác. + Cái đẹp, cái thiện có khả năng cảm hóa kỳ diệu đối với cái xấu, cái ác, trở thành tấm gương soi để cái xấu, cái ác tự thức tỉnh và cải thiện mình. => Cái đẹp cứu rỗi thế giới. - Cái xấu, cái ác và cái đẹp, cái thiện không chỉ tồn tại trong môi trường rộng xung quanh con người mà nó tồn tại ngay trong bản thân mỗi người. Trong mỗi người có cả “rồng phượng lẫn rắn rết”, “thiên thần và ác quỷ”. Mỗi người phải làm chủ bản thân, hiểu rõ mình và cố gắng đấu tranh chiến thắng những ích kỉ, nhỏ nhen trong chính con người mình để vươn tới những điều tốt đẹp. - Trong đời sống, đôi khi cái đẹp, cái thiện có thể bị cái xấu, cái ác lấn lướt nhưng đó chỉ là những biểu hiện nhất thời, trong một phạm vi nhất định. Mỗi người cần tin rằng, cái đẹp, cái thiện tất yếu sẽ chiến thắng. Hướng đến cái đẹp, cái thiện là hướng tới ánh sáng và tương lai tốt đẹp. 3 Bài học nhận thức và hành động. 1,0 Từ nhận thức về bài học cuộc sống qua câu chuyện trên, thí sinh cần liên hệ với những trải nghiệm của chính mình trong cuộc sống để rút ra những bài học cho việc hoàn thiện nhân cách. Câu 2 (14,0 điểm) a. Về kĩ năng: - Biết cách làm bài văn nghị luận văn học, bố cục rõ ràng, vận dụng tốt các thao tác lập luận. - Biết cách phân tích dẫn chứng để làm sáng tỏ vấn đề nghị luận. - Bài viết mạch lạc, trong sáng có cảm xúc, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp. b. Về kiến thức: Học sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm bảo những ý cơ bản sau:
  4. Ý Nội dung Điểm 1. Giới thiệu vấn đề nghị luận: Cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ trong quá 0,5 trình sáng tác. 2. Giải quyết vấn đề nghị luận: 2.1. Giải thích quan niệm của Chế Lan Viên 1,5 - Những câu thơ trên cho thấy Chế Lan Viên đã nghiêm khắc lên án những loại “nghệ sĩ con rối” không chủ động sáng tạo, đánh mất cá tính hoặc không dám thể hiện hết cá tính của mình. - Từ sự phê phán đó Chế Lan Viên đã đặt ra yêu cầu đối với nhà văn trong quá trình sáng tác: phải có cá tính sáng tạo, không bao giờ lặp lại người khác và càng không được phép lặp lại chính mình. 2.2. Bình luận 2,0 - Sự cảnh báo của Chế Lan Viên về một kiểu nhà thơ, một kiểu nghệ sĩ thiếu cá tính sáng tạo qua những câu thơ trên không chỉ đúng với thời đã qua, thời hiện tại mà còn đúng với mọi thời. Đây là vấn đề có tính quy luật trong sáng tạo nghệ thuật nói chung và thơ ca nói riêng vì: + Sáng tạo nghệ thuật thuộc lĩnh vực sản xuất tinh thần, mang tính cá thể hoá cao độ, tức là nhà văn là người duy nhất thực hiện mọi khâu sáng tác (tự quan sát thế giới hiện thực, lựa chọn đề tài, nghiền ngẫm những vấn đề đời sống, khi ý đồ sáng tạo đã chín muồi, cảm hứng đã lên men, nhà văn phải tự viết, tự sửa chữa bản thảo) không ai thay thế được. + Mỗi nhà văn là một thế giới vì thế bằng tài năng và cá tính của mình họ có thể trực tiếp đóng góp cho sự phong phú, đa dạng của một nền văn học. - Cá tính sáng tạo có vai trò và ý nghĩa rất lớn đối với sự nghiệp của một nhà văn. Nó là một loại thước đo nghệ thuật (Khrapchencô) bởi người nghệ sĩ đích thực, người nghệ sĩ có tài năng bao giờ cũng mang đến cho đời một cái gì mới, một cái gì riêng biệt chưa từng có. Chính cái mới, cái riêng biệt đó làm cho cuộc sống luôn luôn phong phú, lạ lùng, hấp dẫn (Nguyễn Văn Hạnh). Chính nhà thơ Chế Lan Viên cũng ý thức rất rõ về điều này khi cho rằng: nhà thơ phải là người không nhai lại, phải có cái tạng riêng, có cách sút bóng riêng trong cái sân cỏ trang thơ nghìn thuở giống nhau. -> Lao động của nhà văn là lao động nghệ thuật, đòi hỏi sự mới mẻ cả về hình thức và nội dung. 2.3. Chứng minh: Học sinh chứng minh làm rõ cá tính sáng tạo của Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ Cảnh ngày hè và Nhàn
  5. a. Cả hai bài thơ đều thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi và 1,0 Nguyễn Bỉnh Khiêm khi lựa chọn lối sống nhàn tản, rũ bỏ danh lợi về ở ẩn, hoà đồng với thiên nhiên để di dưỡng tinh thần. Dù cả hai đều chọn về nhàn nhưng không phải trốn đời, lánh đời mà vẫn mở rộng tấm lòng, hoà mình với cuộc sống nơi thôn dã. b. Tuy vậy mỗi nhà thơ vẫn thể hiện rõ cá tính sáng tạo riêng của mình: * Bài thơ Cảnh ngày hè: - Nội dung: 2,5 + Nguyễn Trãi dành cả một ngày dài để thưởng ngoạn thiên nhiên. Trong cái nhìn của Nguyễn Trãi cảnh sắc thiên nhiên rạo rực, căng tràn, ngồn ngộn sức sống, thể hiện tình cảm mãnh liệt của nhà thơ với đời. + Song ở Nguyễn Trãi, cảnh nhàn nhưng tâm không nhàn, nhàn cư chứ không nhàn tâm. Cái nhàn của Nguyễn Trãi trong Cảnh ngày hè là cái nhàn bất đắc dĩ. Tuy về nhàn mà vẫn đau đáu trong lòng niềm ái quốc, ưu dân. Làm sao để dân giàu, nước mạnh là ước mơ, là nỗi trăn trở suốt đời của Nguyễn Trãi. 1,0 - Nghệ thuật: Ngôn ngữ điêu luyện, thơ thất ngôn chen lục ngôn đầy sáng tạo, hình ảnh từ ngữ sống động, độc đáo, nghệ thuật đối khá chuẩn * Bài thơ Nhàn: 2,5 - Nội dung: + Nhàn với Nguyễn Bỉnh Khiêm được nâng lên thành một triết lí sống, thành một sự lựa chọn sáng suốt, minh mẫn. Ông về nhàn và vui trọn với thiên nhiên. Cảnh vật trong thơ ông hiện lên yên bình, thanh thản. Con người hiện ra với tâm thế nhàn tản, ung dung, sống với những điều bình dị, sẵn có nơi thôn dã. Thái độ của Nguyễn Bỉnh Khiêm là không vướng bận cuộc đời, khinh bỉ công danh. Cái nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là cái nhàn của người đã thoát vòng tục luỵ, đã giác ngộ được quy luật thời thế 1,0 “công thành thân thoái” - Nghệ thuật: Ngôn ngữ giản dị, phần lớn là thuần việt; hình ảnh cô đọng, đối ngẫu chặt chẽ; kết cấu, nhịp điệu các câu thơ luôn luôn chuyển đổi theo yêu cầu và mục đích của việc diễn tả 2.4 Đánh giá 1,5 - Cá tính sáng tạo là một yếu tố động. Nó vận động và phát triển theo sự vận động và phát triển trong quá trình sáng tạo của người nghệ sĩ. Vì vậy, mỗi người nghệ sĩ cần phải biết rèn luyện, tu dưỡng và phát huy cá tính sáng tạo của mình. Những nhà thơ đã có cá tính rồi, phát triển thêm nhiều
  6. mặt của cá tính ấy và làm cho các mặt chín ngang nhau. Những nhà thơ cá tính còn non, làm cho cá tính già dặn. Và những nhà thơ tình cờ làm được một bài có cá tính phải làm sao cho cái cá tính ấy lan ra được nhiều bài, làm cho về sau cả đời thơ mình là một đời thơ có cá tính. - Ý kiến trên cũng trở thành phương châm, nguyên tắc sáng tạo của người nghệ sĩ chân chính đồng thời cũng giúp người đọc và giới nghiên cứu phê bình có hướng đi đúng đắn hơn trong quá trình đánh giá, thẩm định tác phẩm 3 Khái quát lại vấn đề nghị luận. 0,5 HẾT