Sáng kiến kinh nghiệm Giáo viên chủ nhiệm là nhân tố then chốt trong việc giáo dục học sinh

docx 22 trang thungat 2550
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Giáo viên chủ nhiệm là nhân tố then chốt trong việc giáo dục học sinh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_giao_vien_chu_nhiem_la_nhan_to_then_ch.docx

Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Giáo viên chủ nhiệm là nhân tố then chốt trong việc giáo dục học sinh

  1. Phiếu nhận xét dành cho các đơn vị, trường học trực thuộc Sở GD&ĐT Mẫu 2a SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TRÀ VINH Độc lập – Tự do – Hạnh phúc TRƯỜNG THPT DƯƠNG HÁO HỌC PHIẾU NHẬN XÉT, XẾP LOẠI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Tên đề tài : Giáo viên chủ nhiệm là nhân tố then chốt trong việc giáo dục học sinh. Thời gian thực hiện: Năm học 2016 -2017 Tác giả : Bùi Thị Kiều Nhi Chức vụ : Giáo Viên Bộ phận công tác : Tổ Hóa – Sinh – Công nghệ TỔ CHUYÊN MÔN ( TRƯỜNG ) HỘI ĐỒNG KHGD TRƯỜNG Nhận xét: Nhận xét: Xếp loại Xếp loại : Ngày tháng năm . Ngày tháng năm . Tổ trưởng Hiệu trưởng 1
  2. UBND TỈNH TRÀ VINH CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO Độc lập – Tự do – Hạnh phúc PHIẾU NHẬN XÉT, XẾP LOẠI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Tên đề tài : Giáo viên chủ nhiệm là nhân tố then chốt trong việc giáo dục học sinh. Thời gian thực hiện: Năm học 2015 - 2016 Tác giả : Bùi Thị Kiều Nhi Chức vụ : Giáo Viên Đơn vị công tác : Trường THPT Dương Háo Học TỔ BỘ MÔN ( CẤP TỈNH ) HỘI ĐỒNG KHGD SỞ GD & ĐT Nhận xét: Nhận xét: Xếp loại Xếp loại : Ngày tháng năm . Ngày tháng năm . Tổ trưởng CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG Giám đốc Sở Giáo dục & Đào tạo 2
  3. BÁO CÁO TÓM TẮT 1. Người thực hiện: - Họ và tên: Bùi Thị Kiều Nhi - Năm sinh: 20/10/1984 - Đơn vị công tác: Trường THPT Dương Háo Học - Chức vụ hiện tại: Giáo viên - Trình độ chuyên môn: ĐHSP 2. Tên sáng kiến: Giáo viên chủ nhiệm là nhân tố then chốt trong việc giáo dục học sinh. 3. Nội dung sáng kiến: Công tác chủ nhiệm rất phức tạp, khó khăn, đòi hỏi người GVCN phải bỏ nhiều công sức và thời gian. Để làm tốt vai trò của mình GVCN cần biết đặt tình thương, trách nhiệm để giải quyết các tình huống của lớp phụ trách trên cơ sở nề nếp, kỷ cương của nhà trường, biết phối hợp chặt chẽ giữa ba môi trường: gia đình, nhà trường và xã hội Vì vậy, trong việc tổ chức giáo dục học sinh, hoạt động giáo viên chủ nhiệm rất đặc thù và đầy sáng tạo, phải phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Độ tuổi, mức độ trưởng thành của HS, hoạt động của ban cán sự lớp, điều kiện cụ thể của trường, lớp, gia đình HS và các tổ chức xã hội có liên quan. Do vậy, không thể có một khuôn mẫu nhất định cho hoạt động của GVCN. công tác chủ nhiệm là một bộ phận quan trọng trong nhà trường, đòi hỏi GVCN phải hết sức sáng tạo, có một tinh thần trách nhiệm cao, mới gánh vác được nhiệm vụ này có hiệu quả. 4. Thời gian thực hiện sáng kiến: Bắt đầu từ tháng 9/2013 đến tháng 11 năm 2016. 5. Phạm vi áp dụng: - Áp dụng học sinh trường THPT Dương Háo Học ở tất cả các hệ. - Là tài liệu trao đổi phương pháp giáo dục học sinh với đồng nghiệp, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo ở nhà trường. 6. Hiệu quả: - Chưa áp dụng đề tài: Năm Lớp Học sinh Xếp loại học lực Xếp loại hạnh kiểm TNTHPT học CN Đầu Cuối Tỉ lệ G K Tb Y G K Tb Y SL TL năm năm 2013- 2014 11CB 30 25 83,3% 1 5 19 5 10 14 5 1 1 - Áp dụng đề tài: Năm Lớp Học sinh Xếp loại học lực Xếp loại hạnh kiểm TNTHPT học CN Đầu Cuối Tỉ lệ G K Tb Y G K Tb Y SL TL năm năm 2014- 2015 10CB 31 31 100% 7 20 4 0 28 3 0 0 1 2015- 2016 12B2 29 29 100% 7 18 4 0 28 1 0 0 29 100% XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ NGƯỜI BÁO CÁO Bùi Thị Kiều Nhi 3
  4. A. PHẦN MỞ ĐẦU I. Lý do chọn đề tài Như chúng ta đã biết, giáo viên là những người được đào tạo để giáo dục học sinh trở thành những người có đầy đủ Đức - Trí - Thể - Mỹ. Vì vậy, bản thân mỗi giáo viên phải là tấm gương sáng cho học sinh noi theo. Thiết nghĩ, đã chọn nghề giáo làm lý tưởng cho cuộc đời mình, Tôi luôn tự nhủ là phải làm sao giữ cho mình luôn là một giáo viên mẫu mực, một tấm gương tận tụy, một tình cảm nhân hậu, vị tha, một đức tính kiên nhẫn, một tấm lòng rộng lượng, bao dung. Thậy vậy, trong nghề giáo viên có giây phút nào vui hơn, hạnh phúc hơn khi nhìn những ánh mắt rạng ngời, say sưa của học sinh thân yêu khi nghe từng lời giảng của mình. Có tự hào nào hơn khi đứng trên bục giảng được đón nhận những tình cảm mến yêu, kính trọng từ những học trò của mình! Có sung sướng nào hơn khi giữa phố chợ tấp nập ồn ào lại có tiếng chào “Thưa cô!” hay là một cái gật đầu biểu hiện thái độ kính trọng. Vì thế, vai trò của người làm công tác giáo dục là vậy, song không thể không kể đến ngững người làm công tác giảng dạy vừa kiêm nhiệm công tác chủ nhiệm lớp. Vì giáo viên chủ nhiệm là người quản lý cả một tập thể lớp với những tâm tư, nguyện vọng, tình cảm, hoàn cảnh, điều kiện, ý thức tâm sinh lý khác nhau và chỉ đạo mọi hoạt động trong lớp. Đây là chức năng rất đặc trưng của giáo viên chủ nhiệm so với các giáo viên bộ môn khác không làm chủ nhiệm lớp. Đồng thời là người bị áp lực, trách nhiệm ở nhiều góc độ như: về học tập, hạnh kiểm, tham gia các phong trào, học sinh nghĩ học, bỏ học, công tác thi đua, về phía phụ huynh học sinh, Ban giám hiệu. Chính vì vậy, qua nhiều năm giảng dạy, Tôi nhận thấy là một giáo viên nếu được Ban giám hiệu tin tưởng phân công làm công tác chủ nhiệm thì đòi hỏi người giáo viên phải chủ nhiệm lớp bằng cả khả năng và cả một trái tim nhiệt huyết. Bởi vai trò của người làm công tác chủ nhiệm rất quan trọng, làm tốt công tác chủ nhiệm thì kết quả nề nếp và học tập cao và ngược lại. Xuất phát từ những lý do, và yêu cầu thực tiễn trên, Tôi chọn đề tài: “Giáo viên chủ nhiệm là nhân tố then chốt trong việc giáo dục học sinh” làm sáng kiến kinh nghiệm của mình nhằm đóng góp một chút kinh nghiệm làm tốt hơn công tác chủ nhiệm lớp. II. Mục đích và phương pháp nghiên cứu 1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu vai trò, nhiệm vụ của GVCN lớp đối với công tác giáo dục HS để đề ra những giải pháp hợp lý nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức HS và góp phần hoàn thiện nhân cách HS ở trường THPT. 2. Phương pháp nghiên cứu Trong suốt quá trình nghiên cứu thực hiện đề tài, bản thân Tôi đã sử dụng các phương pháp sau: - Phương pháp nghiên cứu lý luận: 4
  5. Thu thập những thông tin lý luận về vai trò của người GVCN lớp trong công tác giáo dục HS THPT, các bài tham luận trên Internet, một số sáng kiến có đề cập tới công tác GVCN của một số đồng nghiệp, bạn bè trường bạn. - Phương pháp điều tra: + Điều tra tình hình lớp, trước khi nhận lớp chủ nhiệm ( hồ sơ, học lực, hạnh kiểm, chức vụ cán sự lớp, hoàn cảnh gia đình, lý lịch hs ) + Trò chuyện, trao đổi với GVBM, với HS. + Thông qua phương pháp này GVCN nắm rõ hơn tâm lý, tính cách của từng HS, rõ về học tập của từng em để tham mưu cho các GVBM, phối hợp với CMHS được tốt hơn trong việc phân công tổ, nhóm học tập.Đồng thời giúp GVCN định hướng cán sự lớp thật sự có năng lực, chất lượng và làm việc có hiệu quả. - Phương pháp phân tích số liệu: Kết quả cụ thể qua từng học kỳ của năm học và qua tổng kết của từng năm học sẽ có sự thay đổi . GVCN sẽ tìm ra những hạn chế, và mặt tích cực để có giải pháp phù hợp hơn cho năm chủ nhiệm tiếp theo. - Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: + Tham khảo kinh nghiệm của đồng nghiệp trường bạn, trường mình. + Từ kinh nghiệm của chính bản thân qua các năm làm công tác chủ nhiệm. - phương pháp thử nghiệm: Đã áp dụng các biện pháp vào công tác giáo dục HS Trường THPT Dương Háo Học từ năm học 2013 đến 2016. III. Giới hạn đề tài §Ò tµi nµy tËp trung nghiªn cøu vÒ ph­¬ng ph¸p giáo dục học sinh IV. Kế hoạch thực hiện Thời gian nghiên cứu: Bắt đầu từ tháng 9/2013, Kết thúc tháng 11 năm 2016. 5
  6. B. PHẦN NỘI DUNG I. Cơ sở lí luận Xây dựng tập thể lớp vững mạnh là yêu cầu giáo dục bắt buộc của tất cả các trường trung học phổ thông, đó cũng là nhiệm vụ quan trọng của giáo viên chủ nhiệm. Một tập thể lớp vững mạnh sẽ là động lực thúc đẩy mọi hoạt động khác nhất là hoạt động học tập của nhà trường. Bên cạnh đó khi giáo viên làm tốt công tác chủ nhiệm và có phương pháp tốt thì sẽ tạo điều kiện và có thời gian để bồi dưỡng và hoàn thành tốt chuyên môn của mình. Trong những năm gần đây cùng với việc thay đổi sách giáo khoa cũ bằng sách giáo khoa mới, việc thay đổi một số phương pháp trong dạy học là rất cần thiết. Song song với việc đổi mới ấy, việc quản lí giáo dục học sinh cũng rất quan trọng, đặc biệt vai trò của GVCN trong công tác giáo dục học sinh. GVCN được coi như người mẹ, người cha thứ 2 của HS. Đối với học sinh THPT, lứa tuổi mà ở đó đặc điểm sinh lí khá phát triển, trí tuệ biến đổi cả về chất và lượng. Các em biết quan sát nhạy bén và cảm nhận tinh tế , tư duy trừu tượng ở mức cao. Nhưng lại rất dễ thay đổi tính nết, dễ sa ngã và bị lôi kéo, lứa tuổi đang và muốn tự khẳng định mình trước mọi người. Để làm tốt công tác chủ nhiệm trước hết GVCN phải nắm rõ nhiệm vụ của GVCN trong điều lệ trường phổ thông. Vì GVCN có một vị trí quan trọng trong việc giáo dục tư tưởng, ý thức đạo đức học sinh, tạo điểm nhấn góp một phần trong phong trào xây dựng trường học thân thiện học sinh tích cực. Do đó GVCN là một trong những nhân tố thúc đẩy sự hình thành nhân cách của học sinh, mang lại một phần kết quả rèn luyện đạo đức, học tập của các em. Học sinh THPT cần được trau dồi tư tưởng vững vàng, có nghị lực vượt khó trong học tập và đời sống. mà các em còn đóng vai trò quan trọng trong chất lượng, tỷ lệ thi TNTHPT của nhà trường, tỷ lệ HS đỗ đại học. Vì vậy việc quản lí giáo dục học sinh THPT không phải là dễ. II. Cơ sở thực tiễn Hiện nay công tác chủ nhiệm mặc dù được chú ý đến nhưng chưa có phương pháp, nhiều giáo viên chỉ chú tâm vào bồi dưỡng chuyên môn mà xem nhẹ công tác chủ nhiệm. Giáo viên chủ nhiệm chưa thấy hết được vị trí và chức năng của mình. Các giáo viên chủ nhiệm chưa có phương pháp tối ưu hoặc có dùng một số phương pháp trong công tác chủ nhiệm nhưng không hiệu quả. Trong công tác chủ nhiệm chỉ chú tâm vào việc rèn luyện, không chú ý đến việc xây dựng tập thể lớp vững mạnh. Do vậy một số lớp mặt dù là lớp tiên tiến, được xếp thứ hạng cao trong trường nhưng lại không phải là một tập thể lớp vững mạnh, chưa phát huy hết vai trò của tập thể. Với những thực tế trên đã dẫn đến ở các trường hiện nay đạo đức học sinh đang đi xuống, tác phong không đúng, lời nói cử chỉ chưa phù hợp với lứa tuổi của mình. Lực học bị sa sút, các thành viên trong lớp không có tinh thần tập thể. Là một giáo viên đã và đang trực tiếp giảng dạy và tham gia làm công tác chủ nhiệm, với mong muốn luôn làm tốt công tác chủ nhiệm và có thêm những 6
  7. kinh nghiệm quý báu trong lĩnh vực này. Cùng với những trăn trở về thực trạng học sinh hiện nay, Tôi xin mạnh dạn đưa ra một số sáng kiến về: “Giáo viên chủ nhiệm là nhân tố then chốt trong việc giáo dục học sinh” để cùng đồng nghiệp trao đổi học hỏi thêm kinh nghiệm cho bản thân. III. Thực trạng và những mâu thuẫn 1. Thuận lợi Được BGH tin tưởng phân công làm công tác chủ nhiệm lớp, nên mỗi năm lại có thêm kinh nghiệm và bài học cho lớp kế theo. Đa phần các em HS ngoan, hiền. BGH rất quan tâm và chú trong công tác chủ nhiệm, GVCN + CMHS + GVBM luôn phối hợp chặt chẽ trong công tác giáo dục HS. Nhà trường tạo điều kiện tốt nhất về cơ sở vật chất để HS được học hành, vui chơi, giải trí, tham gia các hoạt động đoàn thể tốt. Bản thân ngay từ đầu khi nhận chuyển giao lớp Tôi cũng tìm hiểu thông tin từ GVCN lớp trước để tìm hiểu, hoàn cảnh gia đình, cá tính, tác phong đạo đức, thái độ học tập của học sinh. Tuy chưa đầy đủ nhưng cũng đem lại đôi nét sơ bộ về học sinh lớp mình chủ nhiệm để kịp thời đề ra biện pháp khắc phục, bồi dưỡng, động viên, tạo cơ sở ban đầu để đi đến thành công sau này. 2. Khó khăn Sự hiểu biết giữa GVCN và học sinh chưa có, GV phải mất một khoảng thời gian nhất định để tìm hiểu các em. Học sinh bỡ ngỡ trước GVCN mới nên ngại giao tiếp, bày tỏ tâm tư nguyện vọng hoàn cảnh của mình. Thời gian nghỉ hè các em thường mãi mê vui chơi hoặc phụ giúp gia đình mà ít khi xem lại kiến thức cũ để bước vào năm học mới hoặc là do tác động của môi trường xã hội như: Chơi game, bida mà xao lãng với việc học. Trong thời gian nghỉ hè do tác động của môi trường xã hội, bạn bè cùng trang lứa lôi kéo, tác động phụ huynh và học sinh thấy lợi trước mắt mà chưa nghĩ đến tầm quan trọng của việc học sau này. Một bộ phận học sinh nhà xa trường, điều kiện đi lại khó khăn cũng là điều trăn trở của bản thân khi đảm nhiệm công tác chủ nhiệm. IV. Biện pháp giải quyết vấn đề 1. Một số kinh nghiệm của bản thân trong công tác chủ nhiệm thời gian qua: - Trước hết Tôi thu thập một số thông tin như: Số lượng học sinh, tên, tuổi, gia đình, học lực và hạnh kiểm, - Tổ chức đội tự quản bao gồm: Ban cán sự, tổ trưởng, tổ phó, Để phát huy vai trò cố vấn Tôi phải biết khen, gợi tiềm năng sáng tạo của các em trong việc đề xuất các nội dung hoạt động, xây dựng kế hoạch hoạt động học tập cũng như các hoạt động khác phù hợp với mỗi tuần, tháng, học kỳ, năm. - Tổ chức đại hội phụ huynh lớp bầu ra ban đại diện PHHS để tạo sự gắn bó giữa GVCN với gia đình từng học sinh, hiểu được gia đình, cá tính của học sinh 7
  8. khi ở nhà để cùng với ban đại diện PHHS có kế hoạch hợp lý giải quyết những tình huống xảy ra sau này. - Điều lưu ý là xây dựng đội tự quản (Lớp trưởng, lớp phó, tổ trưởng, ) có uy tín được tập thể tín nhiệm, học giỏi, đạo đức tốt, năng lực hoạt động, sáng tạo, đặc biệt là có tinh thần yêu thương, giúp đở bạn bè, là cầu nối của khối đại đoàn kết trong lớp, không phân biệt các bạn có hoàn cảnh gia đình khó khăn, dân tộc, các bạn chậm tiến, học yếu, Sau khi đã có được một lượng thông tin cơ bản Tôi tiến hành xây dựng kế hoạch cho bản thân như sau: - Triển khai nội quy nhà trường. - Kế hoạch năm, học kỳ, tháng, tuần đảm bảo đầy đủ các đề mục văn hóa, đạo đức, hoạt động văn nghệ, TDTT, ngoại khóa, - Hàng tuần có sơ kết đánh giá nhằm phát huy những ưu điểm, khắc phục những tồn tại từng cá nhân, nhóm, tổ và cả tập thể lớp. - Xây dựng kế hoạch thi đua tổ. - Liên hệ với GVBM để có kế hoạch bồi dưỡng học sinh yếu, học sinh giỏi. - Lập sổ liên lạc là cầu nối những thông tin cần thiết từ trường, GVCN và PHHS. - Thường xuyên thăm hỏi gia đình học sinh - Xây dựng nhóm, đôi bạn cùng tiến giúp nhau vượt qua khó khăn. - Kết hợp chặt chẽ với tổ chức Đoàn trong nhà trường trao đổi, cung cấp những thông tin về hoàn cảnh gia đình, tâm tư tình cảm để có hướng hỗ trợ, giúp đỡ hợp lý tránh gây sự mặc cảm trong lòng học sinh và cũng cho học sinh thấy được sự quan tâm chia sẻ tận tình của cả cộng đồng, tạo động lực thúc đẩy cho các em cố gắng vươn lên. Tổ chức các phong trào vui chơi lành mạnh để học sinh có dịp giao lưu, trao đổi kinh nghiệm với nhau. - Tham mưu, đề xuất với Ban giám hiệu, các ban ngành Đoàn thể, chính quyền địa phương để có biện pháp ngăn chặn những biểu hiện xấu xâm nhập học đường. Khen thưởng những tấm gương tiêu biểu, điển hình để tập thể học sinh noi theo. Ngoài ra, sự nhạy bén xử lý tình huống sư phạm của người GVCN là biện pháp quan trọng bởi nó là ranh giới giữa sự buông trôi, bất cần trước hành vi vi phạm của học sinh hoặc là niềm an ủi động viên giúp học sinh nhận ra sai trái để phấn đấu vươn lên. Bản thân là một GVCN Tôi luôn: - Gương mẫu, chuẩn mực cho học sinh noi theo. - Gần gũi, lắng nghe ý kiến học sinh, chia sẻ mọi tâm tư nguyện vọng với học sinh. - Quan tâm đến học sinh hơn. Bao dung, bình đẳng trong đối xử với các em. 8
  9. - Không phân biệt đối xử, không trù dập, không thành kiến với học sinh. - Có trách nhiệm luôn giữ chữ tín với học sinh - Tự học, tự rèn, tự nâng cao tri thức và năng lực tổ chức quản lí lớp. - Đặc biệt, là tạo uy tín của mình trong phụ huynh cũng như học sinh bằng phương châm: “Nói đi đôi với làm”. Ví dụ như: Khi phát động phong trào làm Báo tường chào mừng ngày 26/3. Tôi cũng như học sinh lớp tham gia làm báo cùng các em nên học sinh rất vui vẻ và ủng hộ phong trào này hoặc hoạt động cắm trại xuân, Tôi cũng tham gia hùn tiền cùng học sinh như một thành viên của lớp. - Khi học sinh không hiểu bài Tôi luôn nhiệt tình giảng lại. - Khi học sinh phạm lỗi lầm Tôi không dùng hình phạt, Tôi khuyên răn hướng dẫn học sinh sửa chữa. - Tạo không khí cởi mở, hòa nhã không căng thẳng. - Bản thân luôn yêu nghề, mến trẻ, có tâm quyết với công tác giáo dục - Quan tâm sâu sát với học sinh trong mọi hoàn cảnh, luôn là tấm gương trong cách cư xử. - Biết lắng nghe, tôn trọng ý kiến học sinh. - Đổi mới phương pháp giảng dạy giúp học sinh học tốt nhất. - Tổ chức nhiều hoạt động trong lớp để học sinh vui đến trường. - Tạo mọi điều kiện để học sinh tham gia các hoạt động. - Luôn gương mẫu, yêu nghề, đối xử công bằng với học sinh. 2. Bạo lực học đường và tình trạng học sinh bỏ học: Trong bối cảnh xã hội của cuộc sống sôi động như hiện nay với sự bùng nổ thông tin, sự phát triển nhanh của khoa học kỹ thuật, tác động của kinh tế thị trường, có quá nhiều tiêu cực tác động đến các em từ nhiều phía. Khi bước vào lứa tuổi học sinh trung học, các em vị thành niên cũng bắt đầu một thời kì hết sức có ý nghĩa trong cuộc đời. Đó là giai đoạn “Chuyển đổi” từ trẻ em thành người lớn, dần dần trưởng thành cả thể chất lẫn tinh thần. Các em đối mặt với những thay đổi mạnh mẽ về cảm xúc, nhu cầu, các mối quan hệ, GVCN giúp học sinh nhận thức là đặc biệt quan trọng trong thời kì này, bởi các em chưa đủ năng lực để hiểu được mình, chưa biết điều chỉnh và kiểm soát bản thân, các em dễ rơi vào những mâu thuẫn, xung đột trong quan hệ với chính mình và với người khác. Đây là một áp lực của người làm công tác chủ nhiệm, đòi hỏi người GVCN phải có kĩ năng và nghệ thuật sư phạm, làm cho học sinh chịu tác động chi phối mình một cách tuyệt đối. Ta cần xác định đây là tuổi giao thoa (Lớn không ra lớn, nhỏ không ra nhỏ). GVCN phải biết tâm lí lứa tuổi để làm cố vấn cho các em, ta chỉ cần một sai sót nhỏ về cố vấn sẽ dẫn đến sự hụt hẫng ở các em. Hầu hết ở lứa tuổi này, các em rất đua đòi, có một bộ phận học sinh ăn mặc, đầu tóc, nói tục, chửi thề, vô lễ, đôi khi dị dạng, làm mất đi sự hồn nhiên của lứa tuổi mới lớn. Đặc biệt là các em thích được xem mình đã lớn và muốn chứng tỏ 9
  10. mình trước bạn bè. Có khi các em dỡn qua lại rồi nổi nóng, rồi chửi nhau và dẫn đến đánh nhau hoặc ganh ghét nhau trong học tập rồi hẹn một địa điểm để thanh toán hoặc chặn xe giữa đường để đánh nhau. Có khi do bị khêu khích, do tranh chấp chuyện nào đó nhỏ cũng đánh nhau, có trường hợp đánh nhau, Tôi hỏi lý do, các em nói thấy bạn thấy ghét, em kiếm chuyện đánh cho bỏ ghét, Có em muốn được nổi tiếng, ta đây, muốn làm đại ca để được bạn bè nể phục, khi nhắc đến danh mình thì bạn bè sợ hãi, không dám đụng vào, Hiện tượng học sinh đánh nhau đang là nổi bức xúc, đáng cảnh báo và đáng lo ngại nhất trong học đường hiện nay. Báo động hơn cả là phong trào học sinh nữ đánh nhau đang nhen nhóm lên, thấy bạn khác đẹp hơn mình, chảnh, thấy ghét kiếm chuyện đánh để thể hiện sức mạnh của mình bằng cách làm cho người khác bị tổn thương, đau khổ. Tình trạng học sinh đánh nhau, có thể là do mâu thuẫn một phần, phần lớn nhất là do ảnh hưởng của mạng internet và ghê gớm hơn cả là các em đánh nhau còn quay phin để đăng lên mạng, làm mất phẩm chất của học sinh, rõ ràng các em như bị cuốn theo vòng xoáy của cuộc sống. Những hành vi này đang làm xôn xao dư luận, thay vì các em giải quyết mâu thuẫn bằng đánh nhau thì các em hãy dùng lời nói. Chúng ta phải làm cho học sinh ý thức rằng đánh nhau như vậy là không tốt, không những hại chính bản thân mình mà gia đình xấu hổ, chúng ta phải có giải pháp ngăn chặn tình trạng đánh nhau của học sinh và cho học sinh hiểu hậu quả của nó để các em nhận ra việc học là quan trọng hơn cả. * Sau đây, Tôi đưa ra một số biện pháp thực hiện trong phạm vi là người GVCN nhằm ngăn chặn tình trang học sinh đánh nhau và dẫn đến tình trạng bỏ học: - Trước hết, chúng ta là người cha, người mẹ thứ 2, yêu thương, quan tâm và thấu hiểu mọi tâm tư, nguyện vọng và là chỗ dựa tinh tưởng nhất để các em giải bày mọi khúc mắc. Đôi khi GVCN rất mệt mỏi vì nói hoài mà các em không nghe, càng phạt càng lì hơn hoặc các em sẽ phá phách, chống đối ngầm, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến thành tích chung của lớp. Thông thường, ta nghĩ rằng, các em học sinh phải trật tự và “cung kính” nghe lời dạy của thầy cô, tuy nhiên trong giáo dục ở đây, chúng ta cũng cần thu thập thông tin phản hồi từ phía học sinh, phải lắng nghe và thấu hiểu, lắng nghe bằng cả trái tim cũng như bằng đôi tai để tư vấn cho các em. Sự gần gũi của chúng ta đối với các em rất quan trọng, đặc biệt là các em đã từng bị nhiều thầy cô la rầy, quở trách nên đôi khi rất bất mãn khi nghe những lời không vui tai, Do đó, Tôi trò chuyện với các em và chỉ ra một số điểm yếu mà các em đã từng mắc phải và phân tích cho học sinh thấy tai hại của những biểu hiện bước đầu mà nếu không nhanh chống khắc phục thì lâu dài trở thành bản chất khó thay đổi, đặc biệt ảnh hưởng nghiêm trọng đến học tập và hạnh kiểm của các em. Từ đó định hướng cho các em rèn luyện đạo đức và học tập tốt. Đa số, chúng ta khi thấy học sinh vi phạm là xử lý trên hành động do học sinh gây ra mà 10
  11. quên là cần phải tìm cho ra nguyên nhân. Không phải tự nhiên mà học sinh trở thành cá biệt, đánh nhau như thế, có khi đó là hậu quả của các vết thương tâm lý mà vô tình người lớn đã gieo vào đầu óc non nớt của các em khi sống trong gia đình mà cha mẹ không hòa thuận, li thân, li dị, cha mẹ nuông chìu con, cha mẹ bênh vực con, chưa kể đến có phụ huynh tỏ ra bất lực trước con em mình, điều này ảnh hưởng đến đặc điểm tâm, sinh lí của các em. - GVCN cần có nề nếp, kĩ cương để học sinh tự nhận thức, tự khép mình trong những nội quy, quy chế chặt chẽ. Mục đích của quy chế là vì lợi ích của tập thể, trong đó có lợi ích của cá nhân học sinh nhưng luôn được dân chủ, bàn bạc, trao đổi, thầy trò cùng thảo luận, ai có ý kiến gì đều phát biểu, dân chủ nhưng phải kính thầy, thầy phải quý trò. Ví dụ: Trong lớp Tôi chủ nhiệm năm học 12014 – 2015, có thông tin cho biết: Một số em thành lập băng nhóm có tên “Ve Sầu”. Với những biểu hiện là ăn mặc lố lăng, đầu tóc vàng đỏ bù xù, thường xuyên gây gổ đánh nhâu, tụ tập tại quán cà phê vào ban đêm. Trước tình huống trên Tôi xử lý như sau: * Tôi tìm hiểu và nắm chắc thông tin (các em tham gia, mục đích của nhóm, hoạt động của nhóm ) * Khi có đầy đủ thông tin tổ chức gặp nhóm nói rõ: + Nhiệm vụ của người học sinh trong nhà trường, ngoài nhà trường. + Chuẩn mực đạo đức, lối sống của người học sinh. + Chỉ cho phép hình thành các nhóm bạn cùng chung sở thích để giúp nhau học tập và rèn luyện tốt. + Nhóm nào thì cũng phải hòa đồng trong tập thể lớp, trường. Sau đó, các em nhận thấy thái độ sai trái của mình và tiến bộ hơn trong học tập. - Thuyết phục các em bằng lời lẽ có lí có tình, bằng tình cảm và phép tắc tác động lên nhận thức và tình cảm của học sinh như: trò chuyện, nêu gương tốt, thưởng việc tốt. - Không được nóng tính khi xử lý học sinh, luôn biết tha thứ cho những khuyết điểm mà học sinh mắc phải. Đặc biệt không nên nhắc lại khuyết điểm mà học sinh đã hối hận và tự mình biết sửa chữa khuyết điểm. Với học sinh dạng này, ta không nên ảo tưởng là các em sẽ tiến bộ ngay sau vài lần nhắc nhở và xử phạt của GVCN, có khi vẫn tiếp tục phạm lỗi lầm với mức độ liên tục hơn, nghiêm trọng hơn, như một thách thức, một cách khẳng định mình với bạn bè, với thầy cô, với mọi người. Chính ở những khoảnh khắc này, người GVCN cần thể hiện rõ bản lĩnh và năng lực sư phạm, trong đó có cả năng lực chịu đựng của mình, chịu đựng những vi phạm cố tình, những thách thức nông nổi và cả những nổi bực bội, tức giận đang phải dồn nén trong người. Cần phải tạo được ở các em trước hết là sự tôn trọng, sau đó là sự cảm thông. 11
  12. Ví dụ: Trong giờ sinh hoạt lớp, để nhấn mạnh vai trò của sự học, Tôi nói với HS của mình rằng: “Ngày nay, học vấn đóng vai trò hết sức quan trọng. Sau này, muốn tìm được một công việc phù hợp, có thu nhập cao thì đòi hỏi phải có học vấn, có trình độ tay nghề ” nhưng ngay lúc đó, có một HS phát biểu rằng “Ba em chỉ mới học đến lớp 9 nhưng vẫn làm giám đốc của một công ty, đi về có xe ô tô đưa đón Trước tình huống Trên Tôi xử lý như sau: Ngay lúc đó, Tôi không nóng nãy, Tôi cười vì em đó nói hoàn toàn chính xác. Ta cũng không thể áp dụng bất kỳ một biện pháp thuyết giảng đạo đức nào cho trường hợp này được, chỉ có cách đánh động vào lòng tự ái, vào tính hiếu thắng của tuổi trẻ qua các hình thức sau: + Có thể hỏi em đó “Nhưng đến thời của em, vị trí của ba em hiện tại và những người làm việc xung quanh vị trí đó sẽ là những người thế nào?”. Hoặc có thể nói: “Con hơn cha, nhà có phúc: em phải chứng tỏ mình hơn ba mẹ + Nêu gương những người học giỏi thành đạt, thu nhập cao trong số con của đồng nghiệp xung quanh mình để cho HS ngẫm nghĩ. + Kể chuyện về các trọc phú ngày xưa. Sau đó, các em nhận thấy thái độ sai trái của mình và tiến bộ hơn trong học tập. - Khuyến khích học sinh bằng việc khen, chê đúng mục đích, đúng việc, đúng thời điểm và tế nhị. Một câu động viên, một ánh mắt khích lệ đối với học sinh, hãy sử dụng nó thường xuyên như một món quà tinh thần vô giá trong môi trường sư phạm. Vì chúng sẽ là những động lực lớn lao để các em có thể làm tốt hơn nữa. Đừng nhìn bằng con mắt của người lớn mà phải đứng ở phía học sinh để nhìn nhận. Một câu nói vô tình, một trách phạt nôn nóng, một hành xử thiếu cân nhắc, đôi khi gây tổn thương và có thể là một ám ảnh không nguôi! Nếu học sinh vi phạm một lỗi nào đó nhưng không làm ảnh hưởng đến tập thể lớp thì chỉ nên nhắc nhở nhẹ nhàng. Trước mọi sai lầm, vi phạm của học sinh, GVCN cần hết sức bình tĩnh, bao dung và độ lượng để xem xét, giải quyết, xử lý có lý có tình, phải kiên trì, chịu khó và kiên quyết trong việc giáo dục các em. Ví dụ: Trong giờ ra chơi, bất chợt có 2 học sinh nam trong lớp Tôi chủ nhiệm năm 2015 - 2016, do dành nhau bạn gái nên đã đánh nhau trong lớp. Trong tình huống này Tôi giải quyết tình huống như sau: Trong tình huống này Tôi nghiêm nghị, mời riêng 2 em lên làm việc riêng và đề nghị từng em đưa ra lý do vì sao đánh nhau trong giờ ra chơi. Sau đó Tôi sẽ phân tích những điểm sai, đúng của từng em (Nếu như các em thích bạn thì hãy giữa tình bạn trong sáng, giúp nhau cùng tiến bộ trong học tập. Vì lứa tuổi các em lo học tập là chính) và có thể cảnh báo sẽ thông báo cho phụ huynh nếu lần sau còn có hành động tương tự. Sau đó, các em nhận thấy thái độ sai trái của mình và tiến bộ hơn trong học tập. 12
  13. - Người GVCN nắm vững, vận dụng mọi phương pháp giáo dục học sinh và biết kết hợp chúng trong mọi hoàn cảnh cụ thể. Ví dụ: Cùng một biểu hiện hư như nhau, nhưng có em phải phê bình nghiêm khắc, có em thì nhắc nhẹ, có em chỉ nhắc chung hoặc có em phải trực tiếp bằng chính những lời tâm sự như mẹ, con, có em phải thông qua bạn bè, gia đình, tập thể. - Tuyệt đối, GVCN không nên biến giờ sinh hoạt chủ nhiệm thành giờ tra tấn học sinh, làm cho các em luôn lo sợ, phập phồng và có cảm giác nặng nề, căng thẳng, chán nản. - Nếu GVCN không đo được mức độ của hành vi, sử dụng không tương ứng, dẫn tới phản tác dụng giáo dục. Ví dụ: không đáng khen mà khen quá lời cũng không tốt hoặc chỉ đáng nhắc nhở mà vì lẽ gì GVCN cảnh cáo, phê bình thì sẽ làm cho học sinh hậm hực, bi quan, mất lòng tin. - Khi uốn nắn, giáo dục học sinh vi phạm chúng ta cũng nên khéo léo, làm từ từ, tìm hiểu sự việc cho cặn kẽ, rõ ràng, xử lý nghiêm khắc nhưng cũng mền dẻo, tránh trường hợp dồn các em đến bước đường cùng. Ví dụ: Giờ ra tiết, một học sinh lớp Tôi chủ niệm năm học 2013 - 2014, gặp riêng Tôi và báo cho Tôi biết bạn A (bạn cùng lớp) hăm doạ sẽ đánh một bạn B sau giờ học Trước tình huống đó Tôi xử lý như sau: + Gặp riêng 2 em đó để tìm hiểu sự việc + Phân tích điều đúng, sai về hành vi đó của 2 em + Nêu tác hại của hành vi, giáo dục , nhắc nhỡ khuyên răn 2 em. Sau đó, các em nhận thấy thái độ sai trái của mình và tiến bộ hơn trong học tập. Một vấn đề nóng bỏng cần bàn đến nữa đó là tình trạng học sinh bỏ học hiện nay là một vấn đề rất đau đầu từ các cấp lãnh đạo đến Ban giám hiệu nhà trường. Đặc biệt là đội ngũ những thầy cô giáo đảm nhận công tác chủ nhiệm hiện nay. Trước thực trạng đó, Tôi xin trình bày những kinh nghiệm của bản thân với vai trò là một GVCN mong quý thầy cô chia sẻ. Chúng ta đã biết trong những năm gần đây tình trạng học sinh bỏ học giữa chừng ngày càng gia tăng. Đây là nổi bức xúc đối với ngành, chính quyền địa phương và toàn xã hội. Tình trạng bỏ học có nhiều nguyên nhân: - Do nhận thức của một số PHHS chưa cao về ý nghĩa, tầm quan trọng và cần thiết của việc học tập của con em (Thường có suy nghĩ học để biết viết, tính toán chút ít là được rồi, không cần học cao mới có việc làm ổn định, ). 13
  14. Ví dụ: Một học sinh lớp Tôi chủ nhiệm năm học 2014- 2015 vừa bước sang tuổi 16 đã bị bố mẹ bắt em nghỉ học để lấy chồng vì lý do gia đình bên đó rất giàu có, sau này khỏi lo cái ăn, cái mặc. Đồng thời vì phong tục của địa phương là con gái nên lấy chồng sớm. Nhưng em học sinh này rất muốn đi học, lại không muốn trái lời gia đình. Trước tình huống đó Tôi xử lý như sau: Động viên em giữ vững tinh thần. tiếp tục đi học tốt. Tôi gặp trực tiếp phụ huynh học sinh này để tìm hiểu và nắm bắt hoàn cảnh để có biện pháp giúp đỡ. Đề xuất với nhà trường có biện pháp hỗ trợ, trao đổi với các ban ngành, chính quyền địa phương. Tuyên truyền cho phụ huynh biết việc bắt con gái lấy chồng khi chưa đủ tuổi là vi phạm pháp luật. đồng thời đó là hủ tục đã lạc hậu. Kết quả, mẹ em đổi ý và cho em này tiếp tục học tiếp và em học ngày càng tiến bộ và khi học xong trung học phổ thông em trở thành một Bác sĩ . - Do hoàn cảnh gia đình khó khăn về kinh tế nên cha mẹ phải đi làm ăn xa hoặc bản thân học sinh phải đi tìm việc làm để có thu nhập giúp đỡ gia đình. Ví dụ: Một học sinh lớp Tôi chủ nhiệm năm học 2013- 2014 , học lực khá trong lớp vì hoàn cảnh gia đình quá khó khăn, nên em đến trình bày với Tôi, xin cho em nghỉ học đi làm phụ giúp gia đình. Trước tình huống đó, Tôi ứng xử như sau: Tôi đến gia đình em và tìm hiểu nguyên nhân, trình bày với gia đình em : Em là một học sinh khá trong lớp đang có nhiều triển vọng, vì em còn chưa đến tuổi lao động nên nhà trường rất tiếc nếu em phải nghỉ học. Tôi cũng tìm hiếu những khó khăn cụ thể để Tôi sẽ bàn bạc với tập thể lớp, Hội phụ huynh học sinh, Hội khuyến học của địa phương có biện pháp giúp đỡ cụ thể. Phân tích cho gia đình và em biết rõ , mình càng khó khăn thì phải cố gắng học tập để sau này có việc làm ổn định. Kết quả, em đổi ý và cho em này tiếp tục học tiếp và em học ngày càng tiến bộ, khi học xong trung học phổ thông em trở thành một cô công an . - Do nề nếp sinh hoạt gia đình còn hạn chế, thiết sự quan tâm chặt chẽ đối với con em. Ví dụ: Một em học sinh trong lớp Tôi chủ nhiệm trước đây rất ngoan và chăm học, nhưng thời gian gần đây có biểu hiện bỏ một số tiết học và kết quả học tập đi xuống. Sau khi tìm hiểu Tôi biết bố mẹ em đó mới li hôn và em đã bỏ tiết đi chơi game. Khi Tôi gọi riêng em đó để nhắc nhở thì em đó trả lời: “ Bố mẹ có thương em đâu, không ai quan tâm cả thì em cố gắng học làm gì, không sớm thì muộn em cũng phải bỏ học thôi. Trước tình huống trên Tôi xử lý như sau: Có thể nhẹ nhàng khuyên em đó hãy bình tĩnh, vì tương lai của mình em hãy xem lại những hành động của em. Ngoài tình cảm gia đình dành cho em còn có thầy cô, các bạn luôn quan tâm, đứng đằng sau giúp đỡ em, em không nên biểu hiện như thế mà phụ lòng mọi người. đồng thời Tôi về nhà học sinh đó tìm hiểu, gặp mặt người đại diện nuôi em để phối hợp khuyên răn em với thái độ ân cần, 14
  15. quan tâm hơn đối với em đó, luôn động viên nhắc nhở, trò chuyện sau các giờ học, theo dõi biểu hiện của em trong các ngày tiếp theo để có thể phối kết hợp với GVBM và BGH nếu em đó chưa tiến bộ. Sau đó, các em nhận thấy thái độ sai trái của mình và tiến bộ hơn trong học tập. - Do bản thân học sinh yếu kém, mất căn bản dần dần chán nản từ đó bỏ học. - Do một số học sinh ham chơi game, không ham học, thiếu ý thức tổ chức kỷ luật, không chấp hành nội quy của nhà trường, yếu kém học tập, suy thoái về đạo đức. - Một số học sinh ham chơi đua đòi và thử nghiệm cuộc sống từ bạn bè (Thấy một số bạn đi làm ăn xa một thời gian về có tiền rủ nhau đi làm) - Cũng phải nói là một phần do công tác chủ nhiệm của chúng ta thật sự chưa tốt, công tác liên hệ, tiếp xúc, giúp đỡ, động viên, khuyến kích chưa kịp thời, đúng lúc. - Do gắn kết giữa ba môi trường giáo dục (Nhà trường- gia đình- xã hội) chưa chặt chẽ. - Do địa phương chưa có biện pháp tối ưu để quản lí và buộc thanh niên trong bộ tuổi đi học phải thực hiện nghĩa vụ học tập. Đó là một số nguyên nhân dẫn đến học sinh bỏ học hiện nay. *Trước tình trạng đó Tôi xin đưa ra một số giải pháp mang tính chủ quan mong quý thầy cô chia sẻ. - Một là: Đối với gia đình Cần nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng việc học tập của con em. Cần quan tâm sâu sát đến con em về nề nếp học tập và hành vi đạo đức để uốn nắn kịp thời (Nhất là đối với học sinh cá biệt, thường xuyên bỏ học, bỏ tiết được GVCN thông báo đến Phụ huynh) Gia đình thường xuyên liên hệ với GVCN để nắm thông tin về con em mình. Khắc phục mọi khó khăn, tạo điều kiện tốt nhất để con em thực hiện tốt nhất nghĩa vụ học tập. - Hai là: Đối với nhà trường Xây dựng: “ Trường học thân thiện, học sinh tích cực”, tổ chức nhiều hoạt động tập thể, trò chơi dân gian, hội thao, Hoạt động nêu gương điển hình. * Đối với đoàn thể Kết hợp chặt chẽ giữa ba môi trường giáo dục. Lên kế hoạch hỗ trợ, giúp học sinh khó khăn (Xét học bổng, tập sách và tranh thủ vận động các mạnh thường quân ủng hộ học sinh, ) * Đối với GVCN 15
  16. Chúng ta phải thường xuyên làm công tác tư tưởng đối với gia đình học sinh về tầm quan trọng của việc học Thường xuyên liên lạc với gia đình học sinh để nắm rõ hoàn cảnh, tâm tư nguyện vọng nhằm đề ra biện pháp giúp đỡ kịp thời tạo điều kiện tốt nhất cho học sinh học tập. Kết hợp với GVBM để theo dõi học sinh về nề nếp học tập, đạo đức để có biện pháp giáo dục, uốn nắn, bồi dưỡng kịp thời, có kế hoạch bồi dưỡng học sinh yếu kém. Động viên khuyến kích học sinh cố gắng vươn lên trong học tập, khắc phục khó khăn. Xây dựng tập thể và cá nhân học sinh có ý thức tự giác, ý thức tổ chức kỷ luật nhằm hoàn thiện dần phẩm chất đạo đức học sinh. Kết hợp chặt chẽ kịp thời, đúng lúc giữa ba môi trường giáo dục. - Ba là : Đối với chính quyền địa phương Tùy theo điều kiện địa phương tạo môi trường giáo dục học sinh vui chơi giải trí lành mạnh. Có biện pháp tối ưu để quản lí và buộc thanh niên trong bộ tuổi đi học phải thực hiện nghĩa vụ học tập. 3. Phương hướng, giải pháp tăng cường năng lực làm công tác chủ nhiệm của bản thân. Muốn làm tốt công tác chủ nhiệm đòi hỏi trước tiên là người GVCN phải có một nhân cách tốt để phát huy tính ảnh hưởng của mình đến học sinh. Bởi vì, mọi thầy cô đều có ảnh hưởng không nhỏ trong môi trường giáo dục. Nhưng GVCN mới là người có ảnh hưởng sâu sắc nhất tới học sinh lớp chủ nhiệm vì GVCN với học sinh một lớp được thiết lập trên mối quan hệ thường xuyên, quan hệ tình cảm đặc biệt thân thiết trong mọi hoạt động. GVCN được học sinh coi như người dắt lối chỉ đường, đồng thời vừa coi là người thân thiết như cha mẹ, anh chị và như người ban luôn động viên chia sẻ mỗi khi các em gặp chuyện buồn hay bối rối, Có những điều các em không thể nói với cha mẹ được thì thầy cô chính là người duy nhất giúp các em tâm sự nói lên những suy nghĩ và lo lắng của bản thân mình. Chỉ có thể làm tốt công tác chủ nhiệm khi thật sự là một người mẫu mực trong cuộc sống, không chỉ tốt với học sinh lớp chủ nhiệm mà còn đối với gia đình, đồng nghiệp, công dân gương mẫu. Nếu muốn làm tốt công tác chủ nhiệm thì bản thân phải lựa chọn phương hướng và giải pháp phù hợp để giáo dục học sinh. Ví dụ: Một học sinh học yếu không thể yêu cầu học khá, giỏi ngay phải nắm rõ nguyên nhân yếu do sức khỏe, do hoàn cảnh thì không thể áp dụng giải pháp như đối với những em học yếu do lười, không chăm chỉ. 16
  17. Cũng như một hiện tượng không thuộc bài hoặc không làm bài tập thì cũng không thể dùng phương pháp giống nhau mà phải xem đối tượng học sinh đó và tìm hiểu nguyên nhân. Mỗi một đối tượng học sinh cá biệt, học yếu, lười học, thường xuyên vi phạm nề nếp, phải áp dụng một phương pháp gần như khác nhau. Phương pháp giáo dục của người GVCN vừa cứng rắn vừa mềm dẻo, vừa nghiêm khắc vừa khoan dung thì mới có hiệu quả. Ngoài giải pháp giáo dục trực tiếp GVCN còn phải lựa chọ giải pháp gián tiếp thông qua Ban cán sự lớp để các em động viên, giúp đỡ nhau. Tổ chức thi đua trong nhóm, tổ kịp thời biểu dương, khen thưởng không chỉ ở những học sinh khá, giỏi ngay cả những học sinh yếu nếu có biểu hiện tốt thì phải biểu dương, khen thưởng ngay để các em có niềm tin và ý chí vươn lên đẩy lùi mặc cảm. Luôn luôn lấy phương châm khen đặt lên hàng đầu, nhất là tìm mọi cơ hội để khen những học sinh yếu, kém. Điều cấm kị nhất của GVCN là sự đối xử thiên vị, là áp dụng kiểu giáo dục quyền uy, thích dùng những biện pháp mạnh quá nghiêm khắc, lúc nào cũng phê bình, kiểm điểm, la lối, mời phụ huynh, đòi kỷ luật học sinh, biến giờ sinh hoạt thành giờ xử án làm cho những học sinh có khuyết điểm không hứng thú, sợ giờ này. Phải luôn luôn vừa dạy vừa dỗ, nghiêm túc nhưng hết sức khoan dung, độ lượng đối với học sinh. Không nên trừng phạt thân thể học sinh, phải giáo dục bằng tình thương và trách nhiệm. Cũng không thể dùng phương pháp áp đặt mà yêu cầu giáo dục cũng phải được thảo luận để mọi thành viên nhận thức, tự giác biến thành nhu cầu rèn luyện của bản thân học sinh. Tạo mối quan hệ gắn kết giữa nhà trường- gia đình và xã hội Xây dựng: “ Trường học thân thiện, học sinh tích cực”, tạo không khí thoải mái để các em tự tin, phấn khởi, hăng say trong học tập cũng như sinh hoạt vui chơi, “Mỗi ngày đến trường là một niềm vui”. Thái độ, cử chỉ, gần gũi, lắng nghe ý kiến học sinh, chia sẽ mọi tâm tư nguyện vọng với học sinh cũng là một giải pháp hữu hiệu trong quá trình giáo dục toàn diện học sinh của người GVCN, đúng nghĩa“ Trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Nhưng dù thế nào, công tác chủ nhiệm vẫn là niềm vui, là niềm tự hào của giáo viên khi mỗi năm một lớp học sinh trưởng thành. Ngày bế giảng những ánh mắt tin yêu, lưu luyến của học sinh, những lời cảm ơn chân tình của phụ huynh là nguồn động viên rất lớn để người GVCN tiếp tục là người đưa đò cần mẫn. Tóm lại, phương pháp sư phạm sâu sắc và rộng lớn vô cùng. Có lẽ, không có công thức nào chung nhất cho nội dung, phương pháp và kĩ năng cho người GVCN. Hoạt động của người GVCN về bản chất là một trong những hoạt động 17
  18. sáng tạo nhất trong quá trình giáo dục, là người xây dựng kế hoạch riêng để giáo dục tập thể học sinh lớp mình. Nhưng cái chung nhất trước tiên cần phải có cái tâm, là lòng nhiệt tình và phương pháp hợp lí, luôn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu học sinh thì nhất định sẽ đem lại thành công. Mỗi ngày, Tôi thường dành một chút thời gian nhất định để tĩnh tâm suy nghĩ về học sinh mắc lỗi. Làm thế nào để giải quyết vấn đề sao cho vừa xây dựng được lòng tin, sự tôn trọng và ý thức kỉ luật của học sinh một cách thân thiện. Bằng sự tâm quyết với nghề, bằng tình yêu thương học sinh, ý thức trách nhiệm cao và sự nỗ lực phấn đấu, chúng ta hãy làm hết khả năng để trong tâm trí của những học trò thân yêu ghi lại một hình ảnh đẹp về người giáo viên chủ nhiệm và Tôi mong được giúp đỡ, dạy dỗ, giáo dục cho các em học sinh trở thành những con người hữu ích cho xã hội để xứng đáng được xã hội ban tặng như cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói:”Nghề dạy học là nghề cao quý nhất trong các nghề cao quý vì nó sáng tạo ra những con người sáng tạo”. V. Hiệu quả áp dụng Đề tài đã được nghiên cứu từ năm học 2013- đến nay và đã được dạy ở các lớp ban khoa học tự nhiên và ban cơ bản. Qua các tiết dạy ở lớp, tôi nhận thấy các em đã có nhiều tiến bộ, hiểu rõ hơn về bài tập đột biến gen.So với các năm học trước, năm nay học sinh nắm phần này vững hơn, và tiết học sôi nổi hơn. Kết quả cụ thể ở bài kiểm tra như sau : - Chưa áp dụng đề tài: Năm Lớp Học sinh Xếp loại học lực Xếp loại hạnh TNTHPT học CN kiểm Đầu Cuối Tỉ lệ G K Tb Y G K Tb Y SL TL năm năm 2013 11CB1 30 25 83,3% 1 5 19 5 10 14 5 1 2014 - Áp dụng đề tài: Năm Lớp Học sinh Xếp loại học lực Xếp loại hạnh TNTHPT học CN kiểm Đầu Cuối Tỉ lệ G K Tb Y G K Tb Y SL TL năm năm 2014 10CB1 31 31 100% 7 20 4 0 28 3 0 0 2015 2015 12B2 29 29 100% 7 18 4 0 28 1 0 0 29 100% 2016 18
  19. C. PHẦN KẾT LUẬN I. Ý nghĩa của sáng kiến đối với công tác giảng dạy, học tập. Công tác chủ nhiệm lớp là công tác chiến lược trong nhà trường, có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình giáo dục và kết quả đào tạo ở nhà trường. Công tác chủ nhiệm gây nên những ảnh hưởng lớn và lâu dài đối với học sinh, ảnh hưởng về mọi mặt chứ không chỉ là về học tập hay đạo đức. Công tác chủ nhiệm lớp rất cần thiết cho lứa tuổi thanh niên THPT với những đặc điểm sinh lý, trình độ hiểu biết và vốn sống còn hạn chế. Công tác chủ nhiệm lớp sẽ đáp ứng cho nhu cầu có một chỗ dựa tinh thần của HS để các em có thể nhận được sự hỗ trợ, giúp đỡ hoặc sự hướng dẫn, chỉ dạy, uốn nắn cần thiết kịp thời. II. Khả năng áp dụng - Áp dụng học sinh trường THPT Dương Háo Học ở tất cả các hệ. - Là tài liệu trao đổi phương pháp giáo dục học sinh với đồng nghiệp, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo ở nhà trường. III. Bài học kinh nghiệm, hướng phát triển. Công tác chủ nhiệm rất phức tạp, khó khăn, đòi hỏi người GVCN phải bỏ nhiều công sức và thời gian. Để làm tốt vai trò của mình GVCN cần biết đặt tình thương, trách nhiệm để giải quyết các tình huống của lớp phụ trách trên cơ sở nề nếp, kỷ cương của nhà trường, biết phối hợp chặt chẽ giữa ba môi trường: gia đình, nhà trường và xã hội Vì vậy, trong việc tổ chức giáo dục học sinh, hoạt động giáo viên chủ nhiệm rất đặc thù và đầy sáng tạo, phải phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: - Độ tuổi, mức độ trưởng thành của HS. - Hoạt động của ban cán sự lớp. - Điều kiện cụ thể của trường, lớp, gia đình HS, và các tổ chức xã hội có liên quan. Do vậy, không thể có một khuôn mẫu nhất định cho hoạt động của GVCN. công tác chủ nhiệm là một bộ phận quan trọng trong nhà trường, đòi hỏi GVCN phải hết sức sáng tạo, có một tinh thần trách nhiệm cao, mới gánh vác được nhiệm vụ này có hiệu quả. Trên đây là một số biện pháp giáo dục học sinh trong công tác chủ nhiệm mà tôi đã vận dụng và có hiệu quả trong công tác chủ nhiệm 3 năm qua ở các lớp của khối 10, 11, 12. Tôi mạnh dạn viết lên ý kiến về đề tài của mình để đồng nghiệp cùng tham khảo. Dù đã cố gắng rất nhiều nhưng chắc chắn không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp BGH nhà trường, quý đồng nghiệp, để tôi có dịp bổ sung, sửa chữa và tích luỹ thêm được nhiều kinh nghiệm hay. Trong phạm vi đề tài còn mang nhiều tính chủ quan và không tránh khỏi những thiếu sót, vì vậy tôi rất mong sự đóng góp chân thành của BGH nhà trường và quý đồng nghiệp. Xin ch©n thµnh c¶m ¬n! IV. Đề xuất , kiến nghị Để phát huy hơn nữa hiệu quả hoạt động của GVCN, nhà trường cần quan tâm nhiều hơn đến công tác chủ nhiệm lớp. 19
  20. Sở GD – ĐT nên mở lớp bồi dưỡng thêm về nghiệp vụ công tác giáo viên chủ nhiệm lớp. Tổ chức cuộc thi GVCN giỏi cấp cơ sở và cấp sở. Tân An, ngày 04 tháng 11 năm 2016 Người thực hiện Bùi Thị Kiều Nhi 20
  21. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nhiệm vụ GVCN trong điều lệ trường THPT theo quyết định số 07/2007/QĐ- Bộ GD - ĐT ngày 02/04/2007 của bộ trưởng bộ Giáo dục và đào tạo. 2. Một số bài viết tham luận trên internet về công tác chủ nhiệm. 3. Sổ chủ nhiệm các năm học 2013 - 2014; 2014 - 2015; 2015 - 2016. 4. Trao đổi, học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp trong trường THPT số 2 Nghĩa Hành và trường bạn. 21
  22. MỤC LỤC TT Nội dung Trang 01 Lý do chọn đề tài 4 02 Mục đích và phương pháp nghiên cứu đề tài 4 03 Giới hạn đề tài 5 04 Kế hoạch thực hiện 5 05 Cơ sở lí luận 6 06 Cơ sở thực tiển 6 07 Thực trạng và những mâu thuẫn 7 08 Biện pháp giải quyết thực trạng vấn đề 7 09 Hiệu quả áp dụng 18 10 Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm 19 11 Khả năng áp dụng 19 12 Bài học kinh nghiệm, hướng phát triển 19 13 Đề xuất , kiến nghị 19 08 Tài liệu tham khảo 21 09 Mục lục 22 22