Đề cương ôn tập môn Lích sử Lớp 9

doc 77 trang thungat 3190
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề cương ôn tập môn Lích sử Lớp 9", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docde_cuong_on_tap_mon_lich_su_lop_9.doc

Nội dung text: Đề cương ôn tập môn Lích sử Lớp 9

  1. Phần I. LỊCH SỬ THẾ GIỚI 1945 - NAY Chuyên đề I. LIÊN XÔ VÀ CÁC NƯỚC ĐÔNG ÂU SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI II BÀI 1. LIÊN XÔ TỪ NĂM 1945 ĐẾN ĐẦU NHỮNG NĂM 90 CỦA THẾ KỶ XX I. Công cuộc khôi phục kinh tế và xây dựng CNXH ở Liên Xô từ 1945 đến giữa những năm 70 của thế kỷ XX 1. Hoàn cảnh lịch sử - Trong nước: sau Chiến tranh thế giới thứ 2, tuy là nước thắng trận nhưng Liên Xô phải gánh chịu những tổn thất hết sức nặng nề. Hơn 27 triệu người chết, 1.710 thành phố, hơn 70.000 làng mạc, gần 32.000 nhà máy xí nghiệp và 65.000 km đường sắt bị tàn phá. Riêng phần lãnh thổ thuộc châu Âu hầu như hoang tàn đổ nát. Đó là những tổn thất nặng nề hơn bất cứ nước nào trong cuộc chiến. Chiến tranh đã làm cho nền kinh tế Liên Xô phát triển chậm lại tới 10 năm. - Thế giới: các nước phương Tây do Mỹ cầm đầu đã thực hiện chính sách thù địch với Liên Xô, tiến hành “Chiến tranh lạnh", bao vây kinh tế Liên Xô. => Nhiệm vụ của Liên Xô: hàn gắn vết thương chiến tranh và phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng, an ninh, làm nghĩa vụ quốc tế. 2. Những thành tựu chủ yếu - Kinh tế: trong hai thập niên 50 và 60 thế kỷ XX nền kinh tế Xô viết tăng trưởng mạnh. +Công nghiệp: sản xuất công nghiệp bình quân hàng năm tăng 9,6%. Liên Xô trở thành cường quốc công nghiệp đứng thứ hai thế giới sau Mĩ, chiếm khoảng 20% sản lượng công nghiệp của toàn thế giới. Một số ngành công nghiệp có sản lượng cao nhất thế giới như: dầu mỏ, than, thép. +Nông nghiệp thu được nhiều thành tích nổi b. Sản lượng nông nghiệp tăng trung bình khoảng 16% / năm, năng suất trung bình là 15.6 tạ/ ha. - Khoa học - kĩ thuật: Liên Xô đã đạt được nhiều thành tựu rực rỡ: + Năm 1949, Liên Xô chế tạo thành công bom nguyên tử, phá vỡ thế độc quyên hạt nhân của Mĩ. + Năm 1957, là nước đầu tiên phóng thành công vệ tinh nhân tạo, mở đầu kỷ nguyên chinh phục vũ trụ của loài người. - 1 -
  2. + Năm 1961, Liên Xô phóng tàu "Phương Đông" đưa nhà du hành vũ trụ Ga-ga-rin lần đầu tiên bay vòng quanh Trái Đất và cũng là nước dẫn đầu thế giới về những chuyến bay dài ngày trong vũ trụ - Về xã hội, Liên Xô có những thay đổi rõ rệt. Công nhân chiếm hơn một nửa số người lao động trong cả nước. Trình độ học vấn của người dân không ngừng được nâng cao. - Về quân sự: từ đầu năm những năm 70, bằng việc kí với Mĩ các hiệp ước về hạn chế vũ khí chiến lược Liên Xô đã đạt được thế cân bằng chiến lược về sức mạnh quân sự nói chung và vũ khí hạt nhân nói riêng với Mĩ và các nước phương Tây. - Về đối ngoại, + Chủ trương: nhà nước Xô viết chủ trương duy trì hòa bình và an ninh thế giới, thực hiện chính sách chung sống hòa bình, quan hệ hữu nghị với tất cả các nước; đồng thời tích cực ủng hộ phong trào cách mạng thế giới. + Ý nghĩa: Liên Xô trở thành chỗ dựa vững chắc của hòa bình và cách mạng thế giới. Địa vị và ảnh hưởng của Liên Xô lớn mạnh hơn bao giờ hết. II. Sự khủng hoảng và tan vỡ của Liên bang Xô viết từ giữ những năm 70 đến đầu những năm 90 của thế kỷ XX - Năm 1973, cuộc khủng hoảng dầu mỏ đã mở đầu cho cuộc khủng hoảng về nhiều mặt của thế giới. Nó đặt ra yêu cầu phải có những cải cách về kinh tế và chính trị -xã hội - Trong bối cảnh đó, Ban lãnh đạo Liên Xô lại chủ quan cho rằng quan hệ sản xuất XHCN không chịu tác động của cuộc khủng hoàng chung toàn thế giới, nên đã không tiến hành những cải cách cần thiết về kinh tế và xã hội. Tới đầu những năm 80 của thế kỷ XX, nền kinh tế đất nước ngày càng khó khăn: + Sản xuất công - nông nghiệp đình trệ, lương thực thực phẩm và nhiều hàng hoá khan hiếm, mức sống của người dân giảm sút. + Thêm vào đó những vi phạm về pháp chế, thiếu dân chủ và các tệ nạn quan liêu tham nhũng ngày càng trầm trọng. Đất nước lâm vào khủng hoảng toàn diện. - Trong bối cảnh đó, tháng 3 năm 1985, Goóc-ba- chốp lên nắm quyền lãnh đạo đất nước đã đề ra đường lối cải tổ. Cải tổ được tuyên bố như một cuộc cách mạng nhằm khắc phục những sai lầm, thiếu sót trước đây, đưa đất nước thoát khỏi cuộc khủng hoảng và xây dựng một CNXH theo đúng bản chất và ý nghĩa nhân văn đích thực của nó. - Cải tổ chủ yếu được tiền hành trên lĩnh vực chính trị xã hội: - 2 -
  3. + Chính trị xã hội: thực hiện chế độ Tổng thống tập trung nắm mọi quyền lực, đa nguyên về chính trị, xóa bỏ chế độ một đảng, tuyên bố dân chủ và công khai mọi mặt. + Về kinh tế: Chính phủ đưa ra nhiều phương án nhằm chuyển nền kinh tế Xô viết sang cơ chế thị trường, nhưng trên thực tế chưa thực hiện được gì, trong khi đó quan hệ sản xuất cũ bị phá vỡ mà các quan hệ kinh tế mới thì chưa hình thành - Do không có sự chuẩn bị đầy đủ các điều kiện cần thiết và thiếu một đường lối chiến lược toàn diện, nhất quán, nên công cuộc cải tổ nhanh chóng lâm vào tình trạng bế tắc. Đất nước chìm sâu vào khủng hoảng và rối loạn. Mâu thuẫn sắc tộc bủng nổ, nhiều cuộc bãi công diễn ra, các tệ nạn xã hội gia tăng, nhiều nước cộng hoà đòi li khai, các thế lực chống đối ráo riết kích động quần chúng Tất cả đã đặt đất nước Xô Viết trước những khó khăn thử thách nghiêm trọng, đặc biệt vào đầu thập niên 90. - Trong bối cảnh đó, ngày 19.8.1991, một số người lãnh đạo Đảng và Nhà nước Xô Viết đã tiến hành đảo chính lật đổ Goóc-ba-chốp nhưng thất bại. Cuộc đảo chính thất bại đã dẫn đến những hậu quả cực kì nghiêm trọng: Đảng Cộng sản Liên Xô bị đình chỉ hoạt động trong toàn Liên bang, Nhà nước Liên bang hầu như tê liệt, các nước cộng hòa đua nhau đòi độc lập, tách khỏi Liên bang. Sự tan rã của Liên bang Xô viết chỉ còn là vấn đề thời gian. - Ngày 21-12-1991, tại thủ đô Ca-dắc-xtan, những người lãnh đạo 11 nước cộng hòa trong Liên bang Xô viết đã họp và kí hiệp định về giải tán Liên bang Xô viết, thành lập Cộng đồng các quốc gia độc lập gọi tắt là SNG gồm 11 nước thành viên. - Ngày 25/12/1991, Tổng thống Goóc-ba-chốp tuyên bố từ chức. Lá cờ Liên bang Xô viết trên điện Crem- li bị hạ xuống, đánh dấu sự chấm dứt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên bang Xô Viết sau 74 năm tồn tại. III. Nguyên nhân tan rã của chế độ XHCN ở Liên Xô - Do xây dựng mô hình CNXH chưa đúng đắn, chưa phù hợp với quy luật khách quan trên nhiều mặt. Đó là một mô hình CNXH theo kiểu tập trung, quan liêu, bao cấp, kế hoạch hóa cao độ. - Chậm sửa đổi trước những biến động của tình hình thế giới, không bắt kịp sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật hiện đại, đưa tới sự trì trệ, khủng hoảng về kinh tế, xã hội. - Khi tiến hành cải tổ lại mắc những sai lầm nghiêm trọng, rời bỏ những nguyên lí đúng đắn của chủ nghĩa Mác Lênin, làm cho khủng hoảng càng thêm nặng nề. - 3 -
  4. - Hoạt động chống phá của các thế lực thù địch trong và ngoài nước, đặc biệt là âm mưu “Diễn biến hòa bình” của Mĩ và phương Tây có tác động không nhỏ làm cho tình hình càng thêm rối loạn. - Sai lầm về chính trị, sự tha hóa bản chất của một bộ phận Đảng viên đã làm giảm niềm tin của nhân dân vào Đảng và chế độ BÀI 2. ĐÔNG ÂU TỪ NĂM 1945 ĐẾN ĐẦU NHỮNG NĂM 90 CỦA THẾ KỶ XX I. Sự ra đời các nước dân chủ nhân dân Đông Âu - Trước Chiến tranh thế giới thứ hai, hầu hết các nước Đông Âu đều lệ thuộc vào các nước tư bản Tây Âu. Trong thời kì chiến tranh, bị phát xít Đức chiếm đóng và nô dịch tàn bạo. Vì vậy, khi Hồng quân Liên Xô truy kích quân đội phát xít Đức qua Đông Âu, nhân dân các nước Đông Âu đã nhanh chóng nổi dậy khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền, thành lập nhà nước dân chủ nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của những người cộng sản, một loạt các nhà nước dân chủ nhân dân đã được thành lập ở Đông Âu từ cuối năm 1944 đến năm 1946. Đó là các nước: Ba Lan, Rumani; Hunggari, Tiệp Khắc, NamTư, Anbani; Bungari. - Riêng ở Đức, theo thỏa thuận của ba cường quốc đó là Liên Xô, Mĩ, Anh, nước Đức phải đặt dưới sự chiếm đóng và kiểm soát theo từng khu vực của quân đội các nước Đồng minh. Liên Xô chiếm đóng khu vực phía đông nước Đức, quân đội Mĩ, Anh, Pháp chiếm đóng khu vực phía tây nước Đức. Tháng 9 năm 1949, Nhà nước Cộng hòa Liên bang Đức được thành lập ở Tây Đức và tháng 10 năm 1949 Nhà nước Cộng hòa Dân chủ Đức đã ra đời ở Đông Đức. Hai nhà nước Tây Đức và Đông Đức chịu ảnh hưởng của hai cường quốc là Mĩ và Liên Xô. - Từ 1945 đến năm 1949, vượt qua nhiều khó khăn nhất là sự chống phá của các thế lực thù địch trong và ngoài nước, các nước Đông Âu đã hoàn thành thắng lợi những nhiệm vụ của cách mạng dân chủ nhân dân. Đó là xây dựng bộ máy chính quyền dân chủ nhân dân, tiến hành cải cách ruộng đất, quốc hữu hóa những xí nghiệp lớn của tư bản trong và ngoài nước, thực hiện các quyền tự do dân chủ và cải thiện đời sống nhân dân. - Với việc hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ của giai đoạn cách mạng dân chủ nhân dân, lịch sử các nước Đông Âu đã sang trang mới. Thắng lợi của Đông Âu cùng thắng lợi - 4 -
  5. của cách mạng Trung Quốc và sự thành lập Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) đã làm cho CNXH trở thành hệ thống thế giới. II. Công cuộc xây dựng CNXH ở Đông Âu từ 1950 - đến đầu những năm 70 của thế kỉ XX - Sau khi hoàn thành cuộc cách mạng dân chủ nhân dân, từ năm 1949, các nước Đông Âu bước vào giai đoạn xây dựng CNXH. Những nhiệm vụ chính của giai đoạn này là: xoá bỏ chế độ bóc lột của giai cấp tư sản, đưa nông dân vào con đường làm ăn tập thể thông qua hình thức hợp tác xã; tiến hành công nghiệp hóa nhằm xoá bỏ tình trạng nghèo nàn lạc hậu, xây dựng cơ sở vật chất - kĩ thuật của CNXH. - Kết quả, sau 20 năm xây dựng đất nước, với sự giúp đỡ của Liên Xô, các nước Đông Âu đã thu được những thành tựu to lớn. * Kinh tế: Tới đầu những năm 70 của thế kỷ XX, các nước Đông Âu đã trở thành những nước công - nông nghiệp, bộ mặt kinh tế - xã hôi đất nước thay đổi căn bản và sâu sắc. Trước chiến tranh, Anbani là nước nghèo nhất châu Âu. Tới năm 1970 nền công nghiệp đã được xây dựng, cả nước được điện khí hóa. Tiệp Khắc được xếp vào hàng các nước công nghiệp phát triển, chiếm 1,7 % sản lượng công nghiệp thế giới, * Chính trị: Đất nước ổn định, mọi âm mưu chống phá, thù địch của các nước đế quốc và phản động trong nước đều bị đập tan. Văn hóa giáo dục phát triển. - Đến nửa đầu những năm 70, các nước Đông Âu đã thu được nhiều thành tựu trong công cuộc khôi phục kinh tế và xây dựng cơ sở vật chất kinh tế của CNXH. Những thành tựu to lớn của nhân dân Đông Âu góp phần tăng cường sức mạnh của hệ thống XHCN. III. Sự khủng hoảng tan rã của chế độ XHCN ở Đông Âu - Cũng như tình hình ở Liên Xô, từ cuối những năm 70 và đầu những năm 80 của thế kỷ XX, các nước Đông Âu lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế và chính trị ngày càng gay gắt. - Sản xuất công nông nghiệp suy giảm, buôn bán với nước ngoài giảm sút, nợ nước ngoài tăng lên. Các cuộc đình công của công nhân kéo dài, quần chúng xuống đường biểu tình, - Trong bối cảnh đó, Chính phủ nhiều nước đã đàn áp phong trào quần chúng, không đưa ra các cải cách cần thiết và đúng đắn. - Từ cuối năm 1988, khủng hoảng lên tới đỉnh cao. Khởi đầu từ Ba Lan, sau đó lan nhanh sang các nước khác như: Hung- ga-ri, Tiệp Khắc, Cộng hoà Dân chủ Đức, Ở các nước này mít tinh, biểu tình diễn ra dồn dập đòi cải cách kinh tế, thực hiện đa nguyên về - 5 -
  6. chính trị, tiến hành tổng tuyển cử tự do, mà mũi nhọn đấu tranh nhằm vào Đảng Cộng sản cầm quyền. - Lợi dụng tình hình đó, được sự giúp đỡ của chủ nghĩa đế quốc bên ngoài, các thế lực chống CNXH ra sức kích động quần chúng, đẩy mạnh các hoạt đông chống phá. - Ban lãnh đạo Đảng, Nhà nước Đông Âu phải chấp nhận từ bỏ quyền lãnh đạo, thực hiện đa nguyên về chính trị, tiến hành tổng tuyển cử tự do. - Kết quả, qua tổng tuyển cử ở hầu hết các nước Đông Âu, các thế lực chống phá CNXH thắng cử lên nắm quyền; các Đảng Cộng sản bị thất bại, không còn nắm chính quyền. Như thế, tới cuối năm 1989 chế độ XHCN đã bị sụp đổ ở hầu hết các nước Đông Âu. - Chính quyền mới ở các nước Đông Âu đều tuyên bố từ bỏ XHCN và chủ nghĩa Mác - Lênin, thực hiện đa nguyên về chính trị và chuyển nền kinh tế sang cơ chế thị trường với nhiều thành phần sở hữu. Tên nước và ngày Quốc khánh thay đổi theo hướng chung gọi là nước cộng hòa. BÀI 3. SỰ HÌNH THÀNH HỆ THỐNG XHCN SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI I. Hội đồng tương trợ kinh tế SEV - Khi các nước Đông Âu bắt tay vào công cuộc xây dựng CNXH, mối quan hệ giữa Liên Xô và các nước Đông Âu đòi hỏi phải có sự hợp tác cao hơn và đa dạng hơn, như hợp tác nhiều bên, hoặc phân công và chuyên môn hóa trong sản xuất công - nông nghiệp - Cơ sở của sự hợp tác này là Liên Xô và các nước Đông Âu đều cùng chung một mục tiêu xây dựng CNXH, đều đặt dưới sự lãnh đạo của các Đảng Cộng sản và cùng chung hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác- Lê-nin. - Ngày 8/1/1949, Hội đồng tương trợ kinh tế thưởng gọi tắt là SEV (viết tắt theo tiếng Nga) đã được thành lập với sự tham gia của Liên Xô, Ba Lan, Rumani, Hunggari, Tiệp Khắc, Anbani, Bungari. Sau thêm các nước: Cộng hòa Dân chủ Đức, Mông Cổ, Cu Ba và Việt Nam năm 1978. - Hội đồng tương trợ kinh tế được thành lập nhằm đẩy mạnh sự hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau trong phát triển kinh tế giữa các nước XHCN và đánh dấu sự hình thành hệ thống xã hội chủ nghĩa. - 6 -
  7. - Trong thời gian từ năm 1951 đến năm 1973, Hội đồng tương trợ kinh tế đã có tác dụng rất lớn trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế của các nước thành viên và thu được những thành tích to lớn. + Tốc độ tăng trưởng sản xuất công nghiệp của các nước thành viên bình quân hành năm đạt 10%. + Thu nhập quốc dân 1973 tăng 5,7 lần so với năm 1950. + Trong hoạt động của Hội đồng tương trợ kinh tế, Liên Xô giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Liên Xô đã cho các nước thành viên vay 13 tỉ rúp với lãi suất thấp và viện trợ không hoàn lại 20 tỉ rúp. - Vào đầu thập kỉ 90 của thế kỉ XX cùng với sự khủng hoảng tan rã của chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu, tháng 6 - 1991 Hội đồng tương trợ kinh tế quyết định chấm dứt hoạt động. II. Tổ chức Hiệp ước Vácsava - Trước tình hình thế giới ngày càng căng thẳng do chính sách hiếu chiến, xâm lược của đế quốc Mỹ, nhất là sự ra đời của khối quân sự Bắc Đại Tây Dương tháng 4 năm 1949, gọi tắt là NATO của Mỹ và các nước phương Tây, Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu đã thoả thuận cùng nhau thành lập tổ chức Hiệp ước Vácsava tháng 5 năm 1955. - Đây là một tổ chức liên minh mang tính chất phòng phủ về quân sự và chính trị của các nước XHCN, nhằm chống lại khối NATO, bảo vệ công cuộc xây dựng CNXH, duy trì hòa bình, an ninh của châu Âu và thế giới, củng cố tình hữu nghị, sự hợp tác và sức mạnh của các nước XHCN - Từ khi ra đời, liên minh phòng thủ Vácsava đã trở thành một đối trọng với khối quân sự NATO, kiềm chế âm mưu gây chiến của chủ nghĩa đế quốc, góp phần to lớn trong việc duy trì nền hòa bình, an ninh ở châu Âu và thế giới, thúc đẩy việc hiện đại hóa quân sự các nước thành viên, tạo thế cân bằng về sức mạnh vũ khí thông thường cũng như vũ khí hạt nhân nói riêng với đế quốc Mỹ và Tây Âu. - Khi chế độ XHCN ở Đông Âu khủng hoảng và sụp đổ, tổ chức Hiệp ước Vácsava tuyên bố giải thể tháng 7 năm 1991. - 7 -
  8. Chuyên đề II. CÁC NƯỚC Á - PHI, MĨ LA TINH TỪ NĂM 1945 ĐẾN NAY BÀI 1. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA PHONG TRÀO GIẢI PHÓNG DÂN TỘC VÀ SỰ TAN RÃ CỦA HỆ THỐNG THUỘC ĐỊA 1. Giai đoạn từ năm 1945 đến giữa những năm 60 của thế kỷ XX - Phong trào khởi đầu từ khu vực Đông Nam Á. Ngay khi được tin phát xít Nhật đầu hàng, nhân dân nhiều nước Đông Nam Á nổi dậy, tiến hành khởi nghĩa vũ trang, lật đổ ách thống trị của phát xít Nhật, thành lập chính quyền cách mạng, tiêu biểu là các nước: Inđônêxia, Việt Nam, Lào. Ba nước này lần lượt tuyên bố độc lập: In-đô-nê-xi-a ngày 17- 8- 1945, Việt Nam ngày 2-9-1945 và Lào ngày 12-10-1945. - Tiếp đó, phong trào đấu tranh lan nhanh sang các nước Nam Á và Bắc Phi. Nhiều nước ở hai khu vực này liên tiếp nổi dậy giành độc lập như Ấn Độ (1946-1950), Ai Cập (1952), Angiêri (1954-1962) . Năm 1960, 17 nước châu Phi tuyên bố độc lập. - Ở khu vực Mĩ La-tinh, phong trào diễn ra sôi nổi, mở đầu là thắng lợi của cách mạng Cu Ba. Ngày 01/01/1959, cuộc Cách mạng nhân dân ở Cu Ba dưới sự lãnh đạo của Phi-đen Ca-xtơ-rô đã giành thắng lợi. Chế độ độc tài thân Mĩ bị lật đổ, chính quyền cách mạng được thành lập. - Như vậy, tới giữa những năm 60 của thế kỷ XX, hệ thống thuộc điạ của chủ nghĩa đế quốc thực dân về cơ bản đã bị sụp đổ. Đến đầu năm 1967, hệ thống thuộc địa chỉ còn 5,2 triệu km2 với 35 triệu dân, tập chung chủ yếu ở miền Nam châu Phi. 2. Giai đoạn từ giữa những năm 60 đến giữa những năm 70 thế kỷ XX. - 8 -
  9. - Nét nổi bật của giai đoạn này là phong trào đấu tranh giành độc lập của nhân dân các nước Ăng-gô-la, Mô-dăm-bích và Ghi-nê Bit-xao nhằm lật đổ ách thống trị của Bồ Đào Nha. - Từ đầu những năm 60 nhân dân ba nước này đã tiến hành cuộc đấu tranh vũ trang. Đến đầu năm 1974, Chính phủ độc tài ở Bồ Đào Nha bị lật đổ, chính quyền mới ở Bồ Đào Nha đã tuyên bố trao trả độc lập cho: Ghi-nê Bit-xao tháng 9 năm 1974, Mô-dăm-bich tháng 6 năm 1075 và Ăng-gô-la tháng 11 năm 1975. - Sự tan rã các thuộc địa của Bồ Đào Nha là thắng lợi quan trọng của phòng trào giải phóng dân tộc châu Phi. Đến cuối những năm 70, chủ nghĩa thực dân chỉ còn tồn tại dưới hình thức cuối cùng là chế độ phân biệt chủng tộc A-pac-thai, tập trung ở ba nước miền Nam châu Phi là Rô-đê-di-a, Tây Nam Phi và Cộng hòa Nam Phi. 3. Giai đoạn giữa những năm 70 đến giữa những năm 90 của thế kỷ XX - Từ cuối những năm 70, nhân dân ba nước miền Nam châu Phi đã đấu tranh để chống lại chế độ phân biệt chủng tộc A-pac-thai. Sau nhiều năm đấu tranh ngoan cường và bền bỉ của người da đen, chính quyền thực dân của giai cấp thống trị người da trắng đã phải tuyên bố xoá bỏ chế độ phân biệt chủng tộc, công nhận quyền bầu cử và các quyền tự do dân chủ khác của người da đen. - Sau khi giành thắng lợi trong các cuộc bầu cử, chính quyền của người da đen đã được thành lập ở Rô-đê-di-a năm 1980 sau đổi là Dim-ba-bu-ê và ở Tây Nam Phi năm 1990, sau đổi là Na-mi-bi-a. Một thắng lợi có ý nghĩa lịch sử nữa là ở Cộng hòa Nam Phi, năm 1993 chế độ phân biệt chủng tộc đã bị xoá bỏ sau hơn ba thế kỉ tồn tại. - Như vậy, tới giữa những năm 90 của thế kỉ XX hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc đã bị sụp đổ hoàn toàn. Lịch sử các dân tộc Á - Phi - Mĩ La-tinh đã sang trang mới với nhiệm vụ to lớn là củng cố nền độc lập dân tộc, xây dựng và phát triển đất nước nhằm khắc phục tình trạng nghèo nàn, lạc hậu kéo dài bao đời nay. BÀI 2. CÁC NƯỚC CHÂU Á TỪ NĂM 1945 ĐẾN NAY I. TÌNH HÌNH CHUNG CỦA CÁC NƯỚC CHÂU Á SAU NĂM 1945 - Trước Chiến tranh thế giới thứ hai, hầu hết các nước châu Á đều chịu sự bóc lột và nô dịch nặng nề của các nước đế quốc thực dân. - Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, một cao trào giải phóng dân tộc đã dấy lên, lan nhanh ra cả châu Á. Tới cuối những năm 50, phần lớn các nước châu Á đã giành được độc lập, trong đó có nhiều nước lớn như Trung Quốc, Ấn Độ, In-đô-nê-xi-, - 9 -
  10. - Nửa sau thế kỷ XX, tình hình châu Á lại không ổn định nhất là khu vực Đông Nam Á và Tây Á, bởi các cuộc chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa đế quốc nhằm cố duy trì ách thống trị của chúng, chiếm giữ các vị trí chiến lược quan trọng và ra sức ngăn cản phong trào cách mạng trong khu vực. Sau “Chiến tranh lanh” ở một số nước châu Á đã diễn ra những cuộc xung đột tranh chấp biên giới, lãnh thổ hoặc các phong trào li khai với nhiều hoạt động khủng bố dã man như giữa Ấn Độ và Pa-ki-xtan, hoặc ở Xri-lan-ca, Phi-lip-pin, Inđônêxia - Tuy nhiên, cũng từ nhiều thập niên qua, một số nước ở châu Á đã đạt được sự phát triển nhanh chóng về kinh tế tiêu biểu như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Xingapo, Malaixia và Thái Lan. Từ sự phát triển nhanh chóng đó, nhiều người dự đoán rằng: “thế kỉ XX sẽ là thế kỷ của châu Á”. - Chẳng hạn như Ấn Độ, nước lớn thứ hai ở châu Á, sau khi giành độc lập, Ấn Độ đã thực hiện các kế hoạch dài hạn nhằm phát triển kinh tế, xã hội và đạt được nhiều thành tựu to lớn. Từ nước phải nhập khẩu lương thực, nhờ cuộc “Cách mạng xanh” trong nông nghiệp, Ấn Độ đã tự túc được lương thực cho số dân hơn 1 tỉ người. Các sản phẩm công nghiệp chính của Ấn Độ là hàng dệt, thép, máy móc, thiết bị giao thông, xe hơi Những thập niên gần đây, công nghệ thông tin và viễn thông của Ấn Độ phát triển mạnh. Ấn Độ đang cố gắng vươn lên trở thành cường quốc về công nghệ phần mềm, công nghệ hạt nhân và công nghệ vũ trụ. II. TRUNG QUỐC 1. Sự ra đời của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa - Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Nhật, ở Trung Quốc đã diễn ra cuộc nội chiến kéo dài tới ba năm từ 1946 đến 1949 giữa Quốc dân đảng và Đảng Cộng sản Trung Quốc. Cuối cùng tập đoàn Tưởng Giới Thạch cầm đầu Quốc dân Đảng đã thua trận và rút chạy ra Đài Loan. - Chiều ngày 01.10.1949, tại cuộc mít tinh của trên 30 vạn dân Thủ đô Bắc Kinh trên Quảng trường Thiên An Môn, Chủ tịch Mao Trạch Đông trịnh trọng tuyên bố trước toàn thế giới sự ra đời của nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa. - Nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa ra đời có ý nghĩa lịch sử to lớn: đã kết thúc ách nô dịch hơn 100 năm của đế quốc và hàng nghìn năm của chế độ phong kiến, đưa đất nước Trung Quốc bước vào kỷ nguyên độc lập, tự do và tiến lên CNXH. Cách mạng Trung Quốc thắng lợi đã tăng cường lực lượng cho phe CNXH và làm hệ thống XHCN được nối liền từ châu Âu sang châu Á. - 10 -
  11. 2. Mười năm dầu xây dựng chế độ mới (1949-1959) - Sau khi nước Cộng hoà nhân dân Trung hoa được thành lập, nhiệm vụ to lớn nhất của nhân dân Trung Quốc là đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, tiến hành công nghiệp hoá và phát triển xã hội. - Từ 1950, nhân dân Trung Quốc tiến hành khôi phục kinh tế, cải cách ruộng đất và hợp tác hoá nông nghiệp, cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, phát triển văn hoá - giáo dục - Nhờ những nỗ lực của nhân dân, năm 1952, công cuộc khôi phục kinh tế đã hoàn thành thắng lợi, sản lượng công nghiệp vượt mức trước chiến tranh. - Trong những năm 1953 - 1957, Trung Quốc thực hiện kế hoạch 5 năm đầu tiên. Nhờ sự lao động quên mình của nhân dân và sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô, kế hoạch 5 năm lần thứ nhất đã thu được những thành tựu đáng kể. Bộ mặt đất nước Trung Quốc thay đổi rõ rệt. Năm 1957, sản lượng công nghiệp tăng 140%, nông nghiệp tăng 25% so với 1952 - Nền văn hoá, giáo dục cũng đạt được những bước tiến vượt bậc. Hệ thống giáo dục từ phổ thông đến đại học ngày càng được kiện toàn. - Trung Quốc đã thi hành chính sách đối ngoại tích cực, góp phần củng cố hòa bình và thúc đẩy phong trào cách mạng thế giới. Địa vị quốc tế của Trung Quốc được khẳng định vững chắc. 3. Công cuộc cải cách mở cửa từ 1978 đến nay - Tháng 12/1978, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đề ra đường lối mới, mở đầu cho cuộc cải cách kinh tế - xã hội của đất nước. Đường lối này được nâng lên thành đường lối chung qua Đại hội Đảng lần thứ XII và đặc biệt là Đại hội Đảng lần thứ XIII. - Đường lối mới chủ trương xây dựng chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc; lấy phát triển kinh tế làm trung tâm, thực hiện cải cách và mở cửa nhằm mục tiêu hiện đại hóa, đưa Trung Quốc trở thành một quốc gia giàu mạnh, văn minh. - Trong quá trình thực hiện đường lối mới, Trung Quốc luôn kiên trì bốn nguyên tắc cơ bản, đó là con đường xã hội chủ nghĩa, chuyên chính dân chủ nhân dân, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, chủ nghĩa Mác -Lênin và tư tưởng Mao Trạch Đông. - Sau hơn 20 năm thực hiện đường lối cải cách, mở cửa, đất nước Trung Quốc đã có những biến đổi căn bản. + Kinh tế phát triển nhanh chóng, đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới, năm 2007 tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc đạt 11,6%. - 11 -
  12. + Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng trung bình hàng năm 9,6%, đạt giá trị trên 8 nghìn tỉ Nhân dân tệ, đứng hàng thứ 7 thế giới. Năm 2000, GDP của Trung Quốc vượt qua ngưỡng nghìn tỉ đôla Mĩ. + Với chính sách mở cửa, tổng giá tri xuất nhập khẩu năm 1997 lên tới trên 3 trăm tỉ USD, tăng gấp 15 lần so với năm 1978. Cũng tính đến năm 1997, có 145 nghìn doanh nghiệp nước ngoài hoạt động ở Trung Quốc và đầu tư vào Trung Quốc hơn 5 trăm tỉ USD. + Xã hội, đời sống nhân dân được nâng cao rõ rệt, thu nhập bình quân đầu người theo khu vực có sự thay đổi lớn. + Trên lĩnh vực đối ngoại, Trung Quốc đã thu được nhiều kết quả, góp phần củng cố địa vị đất nước trên trường quốc tế. Từ cuối những năm 80 của thế kỷ XX, Trung Quốc đã lần lượt bình thường hóa quan hệ với Liên Xô, Mông Cổ, Lào, In-đô-nê-xi-a; Việt Nam, mở rộng quan hệ hợp tác với hầu hết các nước trên thế giới. Trung Quốc đã thu hồi chủ quyền đối với Hồng Kông tháng 7-1997 và Ma Cao tháng 12-1999. Đó là những sự kiện có ý nghĩa to lớn đối với Trung Quốc. - Bước vào thế kỷ XX, Trung Quốc thực hiện nhiều mục tiêu nhằm mau chóng trở thành một cường quốc, một cực quan trọng của thế giới đa cực. Bài 3. CÁC NƯỚC ĐÔNG NAM Á I. Tình hình Đông Nam Á trước và sau năm 1945 - Đông Nam Á là khu vực rộng gần 4,5 triệu km, gồm 11 nước với dân số trên 500 triệu người (2002). - Trước Chiến tranh thế giới thứ hai, hầu hết các nước Đông Nam Á đều là thuộc địa của các nước thực dân phương Tây. Trong chiến tranh các nước Đông Nam Á bị quân Nhật chiếm đóng, thống trị và gây nhiều tội ác. - Tháng 8 năm 1945, ngay khi được tin phát xít Nhật đầu hàng, nhân dân Đông Nam Á đã nhanh chóng nổi dậy giành chính quyền lật đổ ách thống trị thực dân. + Ngày 17-8-1945, nhân dân In-đô-nê-xi-a tuyên bố độc lập, thành lập nước Cộng hòa In-đô-nê-xi-a. Ngày 19/8/1945, nhân dân Việt Nam tổng khởi nghĩa giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Ngày 12/10/1945, Lào tuyên bố độc lập. + Nhân dân các nước Mã lai (nay là Malaixia), Miến Điện (nay là Miama) và Philippin đều nổi dậy đấu tranh chống ách chiếm đóng của phát xít Nhật. - Nhưng ngay sau đó, nhiều dân tộc Đông Nam Á lại phải cầm súng tiến hành kháng chiến chống các cuộc chiến tranh xâm lược trở lại của các nước đế quốc như ở Inđonexia, - 12 -
  13. Việt Nam Ở nhiều nơi khác, trước phong trào đấu tranh của nhân dân, các nước đế quốc Mĩ, Anh đã trao trả độc lập cho Philippin tháng 7/1946, Miến Điện tháng 1/1948, Mã Lai tháng 8/1957. Như thế, bằng những hình thức và con đường đấu tranh khác nhau, tới giữa những năm 50 của thế kỷ XX, các nước Đông Nam Á lần lượt giành được độc lập dân tộc. - Cũng từ giữa những năm 50 của thế kỷ XX, trong bối cảnh “Chiến tranh lạnh”, tình hình Đông Nam Á ngày càng trở nên căng thẳng do chính sách can thiệp của Mỹ vào khu vực. Tháng 9-1954, Mỹ cùng Anh, Pháp thành lập khối quân sự Đông Nam Á (SEATO), nhằm ngăn chặn ảnh hưởng của CNXH và đẩy lùi phong trào giải phóng dân tộc trong khu vực. Tình hình khu vực càng trở nên căng thẳng khi Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược ở Việt Nam và mở rộng chiến tranh sang Lào và Campuchia. - Trong thời kì này các nước Đông Nam Á có sự phân hóa trong đường lối đối ngoại. Thái Lan, Philippin tham gia khối SEATO trở thành đồng minh của Mỹ, ba nước Đông Dương đấu tranh chống Mỹ giải phóng dân tộc, Inđô-nê-xi-a và Miến Điện thi hành chính sách hòa bình trung lập, không tham gia vào các khối quân sự xâm lược của các nước đế quốc. - Trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, các nước Đông Nam Á đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Nền kinh tế nhiều nước trong khu vực đã có chuyển biến mạnh mẽ và đạt được sư tăng trưởng cao như Thái Lan, Malaixia, đặc biệt là Xingapo nước có nền kinh tế phát triển nhất ở khu vực và được xếp vào hàng các nước phát triển trên thế giới. - Trước yêu cầu phát triển đất nước và phù hợp với xu thế chung của thời đại, tổ chức Hiệp hội các nước Đông Nam Á được thành lập ngày 8-8-1967, thu hút hầu hết các quốc gia trong khu vực tham gia. Năm 1999, 10 nước trong khu vực đều gia nhập ASEAN, hòa chung vào xu hướng hòa nhập thế giới. II. Sự ra đời và phát triển của tổ chức ASEAN - Sau khi giành được độc lập và đứng trước những yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, nhiều nước Đông Nam Á chủ trương thành lập một tổ chức liên minh khu vực nhằm cùng nhau hợp tác phát triển, đồng thời hạn chế ảnh hưởng của các cường quốc bên ngoài đối với khu vực. - Ngày 8-8-1967, Hiệp hội các nước Đông Nam Á viết tắt theo tiếng Anh là ASEAN đã được thành lập tại Băng Cốc - Thái Lan với sự tham gia của năm nước: Inđônêxia, Malaixia, Philippin, Singapo, Thái Lan. Trụ sở của ASEAN đặt tại Giacacta - Inđônêxia. - 13 -
  14. - Tuyên ngôn thành lập ASEAN, sau này gọi là Tuyên bố Băng Cốc, xác định mục tiêu của ASEAN là phát triển kinh tế và văn hóa thông qua những nỗ lực hợp tác chung giữa các nước thành viên, trên tinh thần duy trì hòa bình và ổn định khu vực. - Nguyên tắc hoạt động: cùng nhau tôn trọng chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ; không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình; hợp tác phát triển có hiệu quả trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa và xã hội. - Hiệp ước Bali - Inđônêxia tháng 2-1976, đã mở ra thời kì phát triển mới của ASEAN. Năm 1984, sau khi giành được độc lập, Brunây đã tham gia và trở thành thành viên thứ 6 của tổ chức ASEAN. - Từ đầu những năm 90 của thế kỷ XX, sau khi “Chiến tranh lạnh” chấm dứt và vấn đề Campuchia được giải quyết, tình hình chính trị khu vực được cải thiện rõ rệt, ASEAN có điều kiện mở rộng tổ chức, kết nạp thành viên mới. + Năm 1992, Việt Nam và Lào tham gia Hiệp ước Ba-li. Đây là bước đi đầu tiên tạo cơ sở để Việt Nam hòa nhập vào các hoạt động của khu vực. Tiếp đó tháng 7/1995 Việt Nam chính thức gia nhập và trở thành thành viên thứ 7 của ASEAN. Năm 1997, Lào và Mianma gia nhập ASEAN. Tháng 4/1999, Campuchia được kết nạp vào tổ chức này. - Như vậy, từ 5 nước sáng lập ban đầu, ASEAN đã phát triển thành 10 nước thành viên. Lần đâu tiên trong lịch sử khu vực, mười nước Đông Nam Á đã đều cùng đứng trong một tổ chức thống nhất. Trên cơ sở đó, ASEAN đã chuyển trọng quan tâm hoạt động sang hợp tác kinh tế, đồng thời xây dựng một khu vực Đông Nam Á hòa bình, ổn định để cùng nhau phát triển phồn vinh. + Năm 1992, ASEAN quyết định biến Đông Nam Á thành một khu vực mậu dịch tự do (AFTA) trong vòng 10-15 năm. + Năm 1994, ASEAN lập Diễn đàn khu vực (ARF) với sự tham gia của 23 quốc gia trong và ngoài khu vực nhằm tạo nên một môi trường hòa bình ổn định cho công cuộc hợp tác phát triển của Đông Nam Á. - Tháng 11-2007, Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 13 đã kí kết bản Hiến chương ASEAN nhằm xây dựng một Cộng đồng ASEAN có vị thế cao hơn và hiệu quả hơn.III. Quan hệ ASEAN và Việt Nam * Thời kì 1967-1972 ASEAN mới được thành lập, chưa có hoạt động gì nổi bật. Trong thời điểm này, một số nước ASEAN như Philippin, Thái Lan trực tiếp hoặc gián tiếp có dính líu vào cuộc - 14 -
  15. chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam với tư cách là những đồng minh của Mỹ. Vì vậy Việt Nam hạn chế quan hệ với từng nước ASEAN cũng như với tổ chức này. * Thời kì 1973- 1986 - Do tình hình khu vực có nhiều chuyển biến mạnh mẽ, ASEAN đã có sự điều chỉnh trong chính sách đối với Việt Nam. - Về phía Việt Nam từ sau khi kí Hiệp định Pari 1973, nước ta bắt đầu tăng cường chính sách khu vực, đẩy mạnh quan hệ song phương với các nước ASEAN. Đặc biệt sau thắng lơi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đất nước thống nhất, vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới được nâng lên, các nước ASEAN đã thay đổi trong “quan hệ với Mỹ”. Nhưng quan hệ Việt Nam và ASEAN vẫn còn căng thẳng do vấn đề Campuchia. * Thời kì 1986 - nay - Khi vấn đề Campuchia được giải quyết và Việt Nam thi hành chính sách đối ngoại “Muốn làm bạn của tất cả các nước” thì quan hệ giữa ASEAN - Việt Nam ngày càng được cải thiện, từ căng thẳng đối đầu chuyển sang đối thoại, hợp tác thân thiện. - Tán thành những nguyên tắc của tổ chức ASEAN, năm 1992 Việt Nam tham gia Hiệp ước Ba-li. Đây là bước đi đầu tiên tạo cơ sở để Việt Nam hòa nhập vào các hoạt động của khu vực. Tiếp đó tháng 7/1995 Việt Nam gia nhập và trở thành thành viên thứ 7 của ASEAN. - Hơn mười năm kể từ khi gia nhập ASEAN, mối quan hệ Việt Nam - ASEAN đã phát triển tốt đẹp. Việt Nam đã, đang và sẽ làm hết mình vì một ASEAn đoàn kết, hợp tác phát triển bền vững, đồng thời Việt Nam cũng nhận được sự giúp đỡ to lớn từ các nước thành viên. BÀI 4. CÁC NƯỚC CHÂU PHI TỪ NĂM 1945 ĐÉN NAY I. Tình hình chung - Châu Phi là lục địa lớn thứ ba thế giới sau châu Á và châu Mỹ, gồm 57 nước với diện tích 30.3 triệu km2, dân số trên 800 triệu người (2000). - Sau Chiến tranh thế giới thứ hai phong trào nổ ra sớm nhất ở Bắc Phi, nơi có trình độ phát triển cao hơn các vùng khác trong lục địa. Khởi đầu là thắng lợi của cuộc binh biến ở Ai Cập tháng 7-1952, lật đổ nền quân chủ chuyên chế và ách thống trị của thực dân Anh, lập nên nước Cộng hòa Ai Cập tháng 6-1953. - Tiếp đó là thắng lợi của cuộc đấu tranh vũ trang kéo dài từ năm 1954 đến năm 1962 của nhân dân Angieri nhằm lật đổ ách thống trị của thực dân Pháp, giành lại độc lập dân - 15 -
  16. tộc. Năm 1960 được gọi là “Năm châu Phi” với sự kiện 17 nước ở lục dịa này tuyên bố độc lập. Từ sau đó, hệ thống thuộc địa của các nước đé quốc lần lượt tan rã, các dân tộc châu Phi giành lại được độc lập và chủ quyền. - Sau khi giành độc lập, các nước châu Phi bắt tay vào công cuộc xây dựng đất nước, phát triển kinh tế xã hội và đã thu được nhiều thành tích. Nhưng những thành tích ấy chưa đủ sức làm thay đổi một cách căn bản bộ mặt của châu Phi. Nhiều nước châu Phi vẫn trong tình trạng đói nghèo, lạc hậu. - Từ cuối những năm 80 của thế kỷ XX, tình hình châu Phi ngày càng khó khăn và không ổn định. Đó là các cuộc xung đột nội chiến đẫm máu do mâu thuẫn sắc tộc hoặc tôn giáo, tình trạng đói nghèo, nợ nần chống chất và các loại dịch bệnh hoành hành. Tất cả những điều đó đã và đang là thách thức lớn đối với nhân dân các nước châu Phi. - Trong những năm gần đây, cùng với sự giúp đỡ của cộng đồng quốc tế, các nước châu Phi đã tích cực tìm kiếm các giải pháp, đề ra cải cách nhằm giải quyết xung đột, khắc phục khó khăn về kinh tế, thành lập tổ chức liên minh khu vực. Lớn nhất là tổ chức thống nhất châu Phi, nay gọi là Liên minh châu Phi (AU). II. Cộng hòa Nam Phi - Cộng hoà Nam Phi nằm ở cực Nam của châu Phi. Diện tích hơn 1 triệu km 2, dân số trên 40 triệu người, trong đó chủ yếu là người da đen. Đây là quốc gia đa sắc tộc, đa tôn giáo, có nền văn hóa độc đáo và giàu tài nguyên thiên nhiên như vàng, kim cương, khí thiên nhiên, - Giữa thế kỷ XVII, người Hà Lan đến Nam Phi, lập ra xứ thuộc địa Kếp. Đầu thế kỷ XIX, Anh chiếm thuộc địa này. Năm 1910, Liên bang Nam Phi được thành lập nằm trong khối Liên hiệp Anh. Năm 1961, trước áp lực đấu tranh của nhân dân, Liên bang Nam Phi rút ra khỏi khối Liên hiệp Anh và tuyên bố là nước Cộng hòa Nam Phi. - Trong hơn ba thế kỷ, chính quyền thực dân da trắng Nam Phi đã thi hành chính sách phân biệt chủng tộc Apácthai cực kì tàn bạo đối với người da đen và da màu. - Dưới sự lãnh đạo của tổ chức “Đại hội dân tộc Phi” (ANC), người da đen đã bền bỉ tiến hành cuộc đấu tranh đòi thủ tiêu chế độ phân biệt chủng tộc. Cộng đồng quốc tế, kể cả Liên hợp quốc đã lên án gay gắt chủ nghĩa Apácthai, ủng hộ cuộc đấu tranh của người da đen. - Trước cuộc đấu tranh ngoan cường của người da đen, chính quyền của người da trắng Nam Phi đã tuyên bố xoá bỏ chế độ A-pác-thai năm 1993, trả tự do cho lãnh tụ ANC, Nen-xơn Man-đê-la sau 27 năm bị cầm tù. - 16 -
  17. - Sau cuộc bầu cử dân chủ đa chủng tộc đầu tiên ở Nam Phi tháng 4- 1994, Nen-xơn Man-đê-la đã trở thành Tổng thống người da đen đầu tiên trong lịch sử nước này. Đó là một thắng lợi có ý nghĩa lịch sử: chế độ phân biệt chủng tộc đã bị xoá bỏ sau hơn ba thế kỷ tồn tại, đất nước Nam Phi bước sang thời kì mới. - Là một nước có thu nhập trung bình trên thế giới, lại có nhiều tài nguyên thiên nhiên như vàng, uranium, kim cương, Chính quyền mới ở Nam Phi đã đưa ra “Chiến lược kinh tế vĩ mô” với tên gọi “Tăng trưởng, việc làm và phân phối lại” nhằm phát triển sản xuất, giải quyết việc làm, cải thiện mức sống của người da đen và xoá bỏ “chế độ Apacthai” về kinh tế còn tồn tại với người da đen. BÀI 5. CÁC NƯỚC MỸ LA TINH TỪ NĂM 1945 ĐẾN NAY I. Nhứng nét chung - Mĩ La-tinh là một khu vực rộng lớn trải dài từ Mê-hi-cô ở Bắc Mĩ xuống Nam Mĩ. Khác với các nước châu Á và châu Phi, nhiêu nước ở Mĩ La - tinh đã sớm giành độc lập từ những thập niên đầu của thế kỷ XIX. Nhưng sau khi thoát khỏi ách thống trị của Tây Ban Nha, các nước Mĩ La-tinh lại rơi vào vòng lệ thuộc nặng nề và trở thành “sân sau” của đế quốc Mĩ. - Từ sau chiến tranh thế giới hai, phong trào đấu tranh chống chế độ độc tài thân Mĩ bùng nổ và phát triển mạnh mẽ ở Mĩ La - tinh. + Mở đầu là thắng lợi của cách mạng Cu Ba năm 1959. Từ đầu những năm 60 đến những năm 80 của thế kỷ XX, một cao trào đấu tranh đã bùng nổ ở Mĩ Latinh và khu vực này được ví như “Lục địa bùng cháy” của phong trào cách mạng. Đấu tranh vũ trang diễn ra ở nhiêu nước như Bôlivia, Vênêxuêla, Côlômbia Kết quả là chính quyền độc tài phản động độc tài ở nhiều nước đã bị lật đổ, các chính phủ dân tộc - dân chủ được thành lập và đã tiến hành nhiều cải cách tiến bộ. + Trong thời kì này, nổi bật lên là những sự kiện diễn ra ở Chi-lê và Nicaragoa. Ở Chilê Chính phủ của Liên minh đoàn kết nhân dân do Tổng thống Agenđê lãnh đạo đã thực hiện nhiều chính sách cải cách tiến bộ, củng cố độc lập chủ quyền dân tộc. Ở Nicaragoa, dưới sự lãnh đạo của mặt trận Xanđinô, nhân dân nước này đã lật đổ chế độ độc tài của Mĩ đưa đất nước tiến theo con đường dân chủ. Nhưng cuối cùng do nhiều nguyên nhân, nhất là sự can thiệp của Mĩ, phong trào cách mạng ở hai nước này đều thất bại. - Trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước, các nước Mĩ La-tinh đã thu được nhiều thành tựu quan trọng: củng cố độc lập chủ quyền dân tộc, dân chủ hóa hoạt động chính trị, tiến hành cải cách kinh tế và thành lập liên minh khu vực về hợp tác phát triển - 17 -
  18. kinh tế. Một số nước trong khu vực đạt được trình độ phát triển cao trở thành nước Công nghiệp mới như Achentina, Braxin, Mehico - Tuy nhiên, từ đầu những năm 90 của thế kỉ XX, do nhiều nguyên nhân, tình hình kinh tế, chính trị ở nhiều nước Mĩ La-tinh lại gặp nhiều khó khăn, thậm chí có lúc căng thẳng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm, thu nhập đầu người hầu như không tăng, nợ nước ngoài tăng, đầu tư nước ngoài giảm sút, tình hình chính trị không ổn định, II. Cách mạng Cu Ba - Cu Ba, quốc đảo nằm trong vùng biển Caribê, rộng 111.000Km 2, với dân số 11.3 triệu ngươi (2002). Cũng giống như hầu hết các nước Mĩ La tinh, sau khi giành độc lập, Cu Ba lại bị lệ thuộc vào Mĩ. - Sau chiến tranh thế giới thứ hai để ngăn chặn và đàn áp phong trào cách mạng ở Cu Ba, tháng 3- 1952, Mĩ giúp Tướng Batixta làm đảo chính, thiết lập chế độ độc tài quân sự. Chính quyền Batixta đã xóa bỏ bản Hiến pháp tiến bộ, cấm các Đảng phái chính trị hoạt động, giết hại và giam cầm hàng chục vạn người yêu nước. - Không cam chịu chế độ độc tài tàn bạo, nhân dân Cu Ba đã bền bỉ tiến hành cuộc đấu tranh giành chính quyền. Mở đầu là cuộc tấn công vào pháo đài Môncađa ngày 26-7- 1953 của 135 thanh niên yêu nước, do Phiđen Catxtơrô chỉ huy. Cuộc tấn công không giành được thắng lợi nhưng đã mở ra một giai đoạn phát triển mới của cách mạng Cu Ba. - Sau gần hai năm bị giam cầm, năm 1955, Phiđen Catxtơrô đã sang Mêhicô tiếp tục cuộc đấu tranh. Tại đây ông đã thành lập tổ chức cách mạng lấy tên là “Phong trào 26.7”, tập hợp các chiến sĩ yêu nước, luyện tập quân sự và chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới. - Cuối 1956, Phiđen Catxơro cùng 81 đồng chí trở về nước trên con tàu “Granma”. Cuộc đổ bộ bị chặn đánh dữ dội, phần lớn các chiến sĩ đã hi sinh, chỉ còn lại 12 người. Nhưng Phi-đen và các đồng chí của mình đã kiên cường tiếp tục chiến đấu. - Được sự ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân, các lực lượng cách mạng ngày càng lớn mạnh và phong trào đấu tranh lan rộng trong cả nước. Từ cuối 1958, quân cách mạng liên tiếp mở các cuộc tiến công. Ngày 1.1.1959, chế độ độc tài Batixta bị lật đổ. Cách mạng Cu Ba giành thắng lợi. - Sau khi cách mạng thành công, Chính phủ cách mạng lâm thời do Phiđen đứng đầu đã tiến hành cuộc cải cách dân chủ triệt để: cải cách ruộng đất, quốc hữu hóa các xí nghiệp tư bản nước ngoài, xây dựng chính quyền cách mạng các cấp, phát triển giáo dục - 18 -
  19. - Tháng 4- 1961, để tiêu diệt cách mạng Cu Ba, Mĩ đã cho một đội quân đánh thuê đổ bộ lên bãi biển Hi-rôn, nhưng bị quân dân Cu Ba đánh bại. Trong giờ phút quyết liệt của cuộc chiến đấu, Phi-đen đã tuyên bố với toàn thế giới: Cu Ba tiến lên CNXH. - Sau khi Liên Xô tan rã, Cu Ba phải trải qua một thời kì đặc biệt khó khăn vè kinh tế. Nhưng với ý chí của toàn Đảng, toàn dân, cùng với những cải cách và điều chỉnh của chính phủ, nền kinh tế Cu Ba đã có những chuyển biến tích cực, mức tăng trưởng ngày càng gia tăng. Chuyên đề III. MĨ - TÂY ÂU- NHẬT BẢN TỪ 1945 ĐẾN NAY BÀI 1. NƯỚC MĨ I. Tình hình kinh té nước Mĩ sau Chiến tranh thế giới thứ hai - Sau Chiến tranh thế giới thứ hai nền kinh tế Mĩ phát triển mạnh mẽ, Mĩ vươn lên trở thành nước tư bản giàu mạnh nhất thế giới. + Trong những năm 1945-1950, nước Mĩ chiếm hơn một nửa sản lượng công nghiệp toàn thế giới. + Sản xuất nông nghiệp tăng 27% so với trước chiến tranh. Năm 1949, sản lượng nông nghiệp của Mĩ gấp 2 lần sản lượng của 5 nước Anh, Pháp, Tây Đức, Italia và Nhật Bản cộng lại. + Mĩ có hơn 50% tàu bè đi lại trên mặt biển, nắm trong tay ¾ dự trữ vàng của thế giới (24,6 tỉ USD), là chủ nợ duy nhất trên thế giới. + Về quân sự, Mĩ có lực lượng mạnh nhất thế giới tư bản và độc quyền về vũ khí nguyên tử. - Trong hai thập niên đầu sau chiến tranh, Mĩ trở thành trung tâm kinh tế - tài chính duy nhất trên thế giới. - Sở dĩ kinh tế Mĩ có được sự phát triển và sức mạnh to lớn như vậy sau chiến tranh là do nhiều nguyên nhân, trong đó có một số nguyên nhân sau: + Mĩ là nước khởi đầu cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật hiện đại. Việc áp dụng thành công những thành tựu của cuộc cách mạng này đã cho phép Mĩ nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm và điều chỉnh hợp lí cơ cấu sản xuất. + Nhờ trình độ tập trung tư bản và sản xuất ở Mĩ rất cao. Các tổ hợp công nghiệp - quân sự, các công ty và tập đoàn tư bản lũng đoạn của Mĩ có sức sản xuất, cạnh tranh lớn và hiệu quả ở cả trong và ngoài nước. - 19 -
  20. + Các chính sách và biện pháp điều tiết của Chính phủ đóng vai trò quan trọng thúc đẩy kinh tế Mĩ phát triển. + Mĩ tham gia Chiến tranh thế giới thứ hai muộn hơn, tổn thất ít hơn so với nhiều nước khác. Hơn nữa Mĩ còn lợi dụng chiến tranh để làm giàu, thu lợi nhuận từ việc sản xuất, buôn bán vũ khí và phương tiện chiến tranh. + Điều kiện về tự nhiên như lãnh thổ rộng lớn, tài nguyên thiên nhiên phong phú, khí hậu khá thuận lợi, nguồn nhân lực dồi dào có trình độ kĩ thuật cao . - Trong những thập niên tiếp sau, tuy vẫn còn đứng đầu thế giới về nhiều mặt Mĩ tuy vẫn đứng đầu thế giới về nhiều mặt nhưng kinh tế Mĩ không còn giữ ưu thế tuyệt đối như trước kia nữa. + Sản lượng công nghiệp giảm, chỉ còn chiếm 39,8 % của thế giới (1973); dự trữ vàng cạn dần chỉ còn 11.9 tỉ USD (1974). Lần đầu tiên sau Chiến tranh thế giới thứ hai, chỉ trong vòng 14 tháng, đồng đô la Mĩ đã bị phá giá hai lần. + Có nhiều nguyên nhân làm cho địa vị kinh tế của Mĩ bị suy giảm như: sự vươn lên mạnh mẽ của Tây Âu và Nhật Bản đã ngày càng cạnh tranh gay gắt với Mĩ; chi phí quân sự lớn; chênh lệch giàu nghèo, suy thoái khủng hoảng, II. Sự phát triển về khoa học, kĩ thuật của Mĩ sau chiến tranh - Nước Mĩ là nơi khởi đầu cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật lần thứ hai, diễn ra từ những năm 40 của thế kỷ XX. Mĩ là nước đi đầu về khoa học - kĩ thuật và công nghệ trên thế giới, đã thu được nhiều thành tựu kì diệu trong tất cả các lĩnh vực như sáng chế các công cụ sản xuất mới như: máy tính, máy tự động, hệ thống máy tự động ; các nguồn năng lượng mới: nguyên tử và Mặt Trời, ; những vật liệu mới: polime, vật liệu tổng hợp; “cách mạng xanh” trong nông nghiệp; cách mạng trong giao thông và thông tin liên lạc; trong công cuộc chinh phục vũ trụ, tháng 7 -1969 lần đầu tiên đưa con người lên thám hiểm Mặt Trăng; Mĩ đã sản xuất các loại vũ khí hiện đại: tên lửa chiến lược, máy bay tàng hình, - Những thành tựu khoa học kĩ thuật đó, không chỉ thúc đẩy kinh tế Mĩ phát triển, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân Mĩ mà còn có ảnh hưởng lớn trên toàn thế giới. III. Chính sách đối nội, đối ngoại của Mĩ sau chiến tranh - Cũng như trước đây, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Đảng dân chủ và Đảng Cộng hoà thay nhau lên cầm quyền ở Mĩ. Tuy bề ngoài hai Đảng này có vẻ đối lập nhau nhưng - 20 -
  21. thực chất đều thống nhất trong chính sách đối nội và đối ngoại nhằm phục vụ lợi ích của các tập đoàn tư bản độc quyền kích sù ở Mĩ. 1. Về đối nội - Để phục vụ mưu đồ bá chủ thế giới, những năm đầu sau chiến tranh, Mĩ đã ban hành hàng loạt các đạo luật phản động như cấm Đảng Cộng sản Mĩ hoạt động, chống lại phong trào đình công và loại bỏ những người có tư tưởng tiến bộ ra khỏi bộ máy Nhà nước. - Tuy sau này do áp lực đấu tranh của các tầng lớp nhân dân, một vài đạo luật đã phải hủy bỏ, nhưng chính quyền của các đời tổng thống vẫn tiếp tục thực hiện hàng loạt các chính sách nhằm ngăn cản phong trào công nhân, thực hiện chính sách phân biệt chủng tộc đối với người da đen và da màu. - Chính sách đối nội của Mĩ đã làm cho phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân bùng lên dữ dội như các mùa hè nóng bỏng của người da đen, phong trào phản chiến trong những năm Mĩ xâm lược Việt Nam đã làm cho nước Mĩ bị chia rẽ sâu sắc. 2. Về đối ngoại - Với tiềm lực kinh tế - quân sự to lớn, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, giới cầm quyền Mĩ đã đề ra “Chiến lược toàn cầu” nhằm chống phá các nước XHCN; đẩy lùi phong trào giải phóng dân tộc và thiết lập sự thống trị trên toàn thế giới. - Để thực hiện các mục tiêu chiến lược trên, Mĩ đã tiến hành viện trợ để lôi kéo khống chế các nước nhận viện trợ, lập các khối quân sự cùng các căn cứ quân sự ở hầu khắp thế giới, gây nhiều cuộc chiến tranh xâm lược, bao vây kinh tế, phá hoại về chính trị, quân sự ở Cu Ba Tuy đã thực hiện được một số mưu đồ, nhưng Mĩ cũng vấp phải nhiều thất bại nặng nề, tiêu biểu là thất bại của Mĩ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. - Sau khi Liên Xô sụp đổ năm 1991, dựa vào sự tăng trưởng kinh tế liên tục và vượt trội về các mặt kinh tế, khoa học - kí thuật, quân sự, các giới cầm quyền Mĩ ráo riết tiến hành nhiều chính sách, biện pháp để xác lập trật tự thế giới “đơn cực” do Mĩ hoàn toàn chi phối và khống chế. Nhưng giữa tham vọng to lớn và khả năng thực tế của Mĩ vẫn có khoảng cách không nhỏ. BÀI 2. NHẬT BẢN I. Tình hình Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới thứ hai - Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Nhật Bản là nước bại trận và lần đầu tiên trong lịch sử Nhật bị quân đội nước ngoài chiếm đóng. Sau chiến tranh, Nhật mất hết thuộc địa, kinh tế bị tàn phá nặng nề; đồng thời nhiều khó khăn bao trùm đất nước, đó là - 21 -
  22. thất nghiệp trầm trọng, thiếu thốn lương thực, thực phẩm và hàng hóa tiêu dùng, lạm phát nặng nề, - Những cũng ngay sau chiến tranh, dưới chế độ quân quản của Mĩ, một loạt các cải cách dân chủ được tiến hành như ban hành Hiến pháp mới có nhiều nội dụng tiến bộ; thực hiện cải cách ruộng đất; xóa bỏ chủ nghĩa quân phiệt và trừng trị các tội phạm chiến tranh; giải thể các công ty độc quyền lớn; thanh lọc các phần tử phát xít ra khỏi cơ quan nhà nước; ban hành các quyền tự do dân chủ, - Đây là những cải cách dân chủ mang tính toàn diện, đem lại luồng không khí mới đối với các tầng lớp nhân dân và là một nhân tố quan trọng giúp Nhật phát triển mạnh mẽ sau này. II. Nhật Bản khôi phục và phát triển kinh tế sau chiến tranh - Từ 1945 đến 1950, kinh tế Nhật phát triển chậm chạp và phụ thuộc chặt chẽ vào kinh tế Mỹ. Năm 1950, kinh tế Nhật dần được khôi phục và bắt đầu phát triển mạnh khi Mỹ tiến hành Chiến tranh Triều Tiên. Bước sang những năm 60 của thế kỉ XX, khi Mĩ gây ra cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, nền kinh tế Nhật lại có cơ hội mới để đạt được sự tăng trưởng “thần kì”, vượt qua các nước Tây Âu, vươn lên đứng thứ hai trong thế giới tư bản chủ nghĩa. + Tổng sản phẩm quốc dân (GDP), năm 1950 chỉ mới đạt 20 tỉ USD bằng 1/17 của Mĩ, nhưng đến năm 1968 đã đạt tới 183 tỉ USD, vươn lên đứng thứ hai thế giới sau Mĩ. + Thu nhập bình quân theo đầu người, năm 1990 đạt trên 23 nghìn USD, vượt Mĩ và đứng thứ hai thế giới sau Thụy Sĩ. + Công nghiệp, trong những năm 1950 - 1960, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm là 15%, những năm 1961- 1970 là 13,5%. Nhật đứng đầu thế giới về số lượng tàu biển, thép, xe máy và hàng điện tử. + Nông nghiệp, phát triển theo hướng thâm canh cơ giới hóa, ứng dụng những thành tựu khoa học kĩ thuật hiện đại vào sản xuất. Trong những năm 1967-1969 nông nghiệp Nhật đã cung cấp được trên 80% nhu cầu lương thực trong nước, 2/3 nhu cầu thịt, sữa và nghề đánh cá rất phát triển, đứng thứ hai thế giới sau Pêru. - Kết quả là từ những năm 70 của thế kỷ XX, cùng với Mỹ và Tây Âu, Nhật Bản đã vươn lên trở thành một trong ba trung tâm kinh tế - tài chính của thế giới. - Sau một thời kì phát triển liên tục, từ đầu những năm 90 của thế kỷ XX, nền kinh tế Nhật đã lâm vào tình trạng suy thoái kéo dài chưa từng thấy từ sau Chiến tranh thế giới hai, tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm sút liên tục. - 22 -
  23. - Từ nước bại trận, bị chiến tranh tàn phá nặng nề, chỉ sau một thời gian ngắn, Nhật Bản đã vươn lên thành một siêu cường kinh tế là do một số yếu tố sau: + Nhờ những cải cách dân chủ tiến bộ, được Mĩ giúp đỡ về quân sự nên Nhật ít phải chi phí cho quốc phòng (Hiến pháp quy định không vượt quá 1% GDP), có điều kiện tập trung vốn phát triển kinh tế. + Truyền thống văn hóa, giáo dục lâu đời của người Nhật - sẵn sàng tiếp thu những giá trị tiến bộ của thế giới nhưng vẫn giữ được bản sắc dân tộc. Con người Nhật Bản được đào tạo chu đáo có ý chí vươn lên, cần cù lao động, đề cao kỷ luật và coi trọng tiết kiệm được coi là vốn quý nhất, là nhân tố quyết định hàng đầu của sự phát triển kinh tế. + Hệ thống tổ chức quản lí có hiệu quả của các xí nghiệp, công ty Nhật Bản tạo nên tiềm lực và sức cạnh tranh cao. + Vai trò quan trọng của Nhà nước trong việc đề ra các chiến lược phát triển, nắm bắt đúng thời cơ và có sự điều tiết cần thiết để đưa nền kinh tế liên tục tăng trưởng. + Nhật Bản luôn áp dụng các thành tựu khoa học - kĩ thuật hiện đại, không ngừng nâng cao năng suất, cải tiến mẫu mã, hạ giá thành sản phẩm. III. Chính sách đối nội, đối ngoại của Nhật Bản sau chiến tranh 1. Về đối nội - Nhờ những cải cách dân chủ sau chiến tranh, Nhật đã chuyển từ một xã hội chuyên chế sang xã hội dân chủ. Quốc hội là cơ quan quyền lực tối cao, Thiên hoàng đứng đầu nhà nước nhưng chỉ có tính chất tượng trưng. - Đảng Cộng sản và nhiều chính đảng khác được công khai hoạt động, phong trào bãi công và phong trào dân chủ phát triển rộng rãi. Suốt một thời kì dài. Suốt một thời kì dài từ năm 1955 đến năm 1993, Đảng Dân chủ tự do (LDP), đại diện cho quyền lợi của giai cấp tư sản liên tục cầm quyền. Nhưng từ năm 1993 Đảng LDP đã mất quyền lập chính phủ, phải nhường chỗ hoặc liên minh với các lực lượng đối lập. Đây là biểu hiện của tình hình chính trị không thật ổn định, có lúc chỉ trong một thời gian ngắn các Chính phủ liên tiếp thay đổi, đòi hỏi phải có một mô hình chính trị mới với sự tham gia cầm quyền của nhiều chính đảng. 2. Về đối ngoại - Sau chiến tranh Nhật Bản là nước bại trận, hoàn toàn lệ thuộc vào Mĩ về chính trị và an ninh. Ngày 8-9-1951, Nhật kí với Mĩ “Hiệp ước an ninh Mỹ- Nhật”, theo đó Nhật Bản chấp nhận đặt dưới “ ô bảo hộ hạt nhân” của Mĩ và để Mĩ đóng quân, xây dựng căn cứ trên lãnh thổ của Nhật. Hiệp ước an ninh Mỹ- Nhật đã được gia hạn vào các năm 1960, - 23 -
  24. 1970 và được nâng cấp vào những năm 1996 và 1997. Nhờ đó trong thời kì “Chiến tranh lạnh” Nhật Bản chỉ dành 1% tổng sản phẩm quốc dân cho những chi phí quân sự, còn tập trung sức vào phát triển kinh tế. - Từ nhiều thập niên qua, các giới cầm quyền Nhật Bản thi hành một chính sách đối ngoại mềm mỏng về chính trị và tập trung vào phát triển các quan hệ kinh tế đối ngoại như trao đổi buôn bán, tiến hành đầu tư và viện trợ cho các nước, đặc biệt đối với các nước Đông Nam Á. Từ đầu những năm 90 của thế kỷ XX, Nhật Bản đang nỗ lực vươn lên trở thành một cường quốc chính trị để tương xứng với địa vị kinh tế của mình. - Đối với Việt Nam và một số nước nghèo trong khu vực Đông Nam Á, hàng năm Nhật giành cho một khoản viện trợ qua ODA để chính phủ các nước này đầu tư cho xây dựng cơ sở vật chất, kĩ thuật, xóa đói giảm nghèo và phát triển kinh tế. Bài 3. TÂY ÂU I. Tình hình chung - Trong Chiến tranh thế giới hai nhiều nước Tây Âu bị phát xít chiếm đóng và tàn phá rất nặng nề, sản xuất công nông nghiệp sụt giảm nghiêm trọng. Sau chiến tranh, hầu hết các nước Tây Âu đều trở thành con nợ của Mỹ - Để khôi phục kinh tế đất nước, năm 1948, 16 nước Tây Âu như Anh, Pháp, Tây Đức, đã nhận viện trợ của Mỹ theo “Kế hoạch phục hưng châu Âu” (còn gọi là kế hoạch Mác-san) do Mỹ vạch ra. Kế hoạch này được thực hiện từ 1948 đến 1951 với tổng số tiền lên tới 17 tỉ USD. Kinh tế các nước Tây Âu được phục hồi nhưng ngày càng lệ thuộc vào Mỹ. - Để nhận được viện trợ, các nước Tây Âu phải tuân theo những điều kiện do Mĩ Đặt ra như không được tiến hành quốc hữu hóa các xí nghiệp, hạ thuế quan đối với hàng hóa Mĩ nhập vào, phải gạt những người cộng sản ra khỏi chính phủ. - Về đối nội, do được củng cố thế lực, giai cấp tư sản cầm quyền ở các nước Tây Âu tìm cách thu hẹp các quyền tự do dân chủ, xóa bỏ các cải cách tiến bộ trước đây, ngăn cản phong trào công nhân và dân chủ. - Về đối ngoại, ngay sau Chiến tranh thế giới thứ hai, nhiều nước Tây Âu đã tiến hành các cuộc chiến tranh xâm lược nhằm khôi phục ách thống trị đối với các thuộc địa trước đây. Hà Lan xâm lược trở lại Inđonexia, Pháp trở lại xâm lược Đông Dương, Anh trở lại Mã Lai Nhưng cuối cùng các nước thực dân Tây Âu đã thất bại, phải công nhận quyền độc lập của các dân tộc ở những nước này. - 24 -
  25. - Trong bối cảnh “Chiến tranh lạnh” gay gắt giữa hai phe, các nước Tây Âu đã tham gia vào khối quân sự bắc Đại Tây Dương (NATO) do Mỹ lập ra nhằm chống lại Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu. Tình hình châu Âu trở nên căng thẳng, các nước đều chạy đua vũ trang và thiết lập nhiều căn cứ quân sự. - Riêng nước Đức, là nước bại trận sau chiến tranh Đức bị chia thành bốn khu vực chiếm đóng. Trong bối cảnh đối đầu gay gắt giữa Liên Xô và Mĩ, các khu vực chiếm đóng của Mĩ, Anh, Pháp đã hợp nhất lại và thành lập Nhà nước Cộng hoà Liên bang Đức (9/1949). Ở khu vực phía đông nước Đức, Nhà nước Cộng hòa Dân chủ Đức được thành lập (10/1949). - Cộng hoà Liên bang Đức tham gia khối NATO, được sự giúp đỡ tích cực của Mĩ, Anh, Pháp nền kinh tế của Cộng hoà Liên bang Đức được phục hồi, phát triển nhanh chóng. Từ những năm 60 và 70 của thế kỷ XX, sản xuất công nghiệp của Cộng hoà Liên bang Đức đã vươn lên đứng thứ ba trong thế giới tư bản chủ nghĩa, sau Mĩ và Nhật Bản. - Trong bối cảnh chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, ngày 03/10/1990 Cộng hoà Dân chủ Đức đã sáp nhập vào Cộng hoà Liên bang Đức thành một nước Đức thống nhất. Ngày nay, nước Đức là quốc gia có tiềm lực kinh tế, quân sự lớn mạnh nhất Tây Âu. II. Liên minh châu Âu (EU) - Sau Chiến tranh thế giới hai, nhất là từ năm 1950 khi nền kinh tế các nước Tây Âu được khôi phục, một xu hướng ngày càng nổi bật là sự liên kết kinh tế giữa các nước trong khu vực. - Có nhiều nguyên nhân đưa tới sự liên kết kinh tế giữa các nước trong khu vực Tây Âu. + Một là, các nước Tây Âu đều có chung một nền văn minh, có một nền kinh tế không khác biệt nhau lắm và từ lâu đã liên hệ mật thiết với nhau. Sự hợp tác phát triển là hết sức cần thiết nhằm mở rộng thị trường, nhất là dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật và còn giúp các nước Tây Âu tin cậy nhau hơn về chính trị, khắc phục những nghi kị, chia rẽ đã xảy ra nhiều lần trong lịch sử. + Hai là, từ năm 1950 do nền kinh tế bắt đầu phát triển với tốc độ nhanh, các nước Tây Âu nếu đứng riêng lẻ thì không thể đọ được với Mỹ nên họ cần liên kết cùng nhau trong cuộc cạnh tranh với các nước ngoài khu vực. - Khởi đầu là sự ra đời của “ Cộng đồng than, thép châu Âu” vào tháng 4- 1951, gồm sáu nước Pháp, Đức, Italia, Bỉ, Hà Lan và Lúc-xăm-bua. - 25 -
  26. - Sau đó, tháng 3-1957, sáu nước trên lại cùng nhau thành lập “Cộng đồng năng lượng nguyên tử châu Âu” rồi “Cộng đồng kinh tế châu Âu” gọi tắt là EEC. Cộng đồng kinh tế châu Âu ra đời nhằm hình thành một thị trường chung để xoá bỏ dần hàng rào thuế quan giữa sáu nước, tiến tới thực hiện tự do lưu thông về nhân công và tư bản Đồng thời có một chính sách thống nhất trong lĩnh vực nông nghiệp và giao thông. - Thánh 7/1967, ba cộng đồng trên sáp nhập với nhau thành Cộng đồng châu Âu (EC). Sau 10 năm chuẩn bị, tháng 12-1991 các nước EC họp Hội nghị cấp cao tại Ma-a- xtơ-rích (Hà Lan), đánh dấu một mốc mang tính đột biến của quá trình liên kết quốc tế tại châu Âu. - Hội nghị đã thông qua hai quyết định quan trọng: + Xây dựng một thị trường nội địa châu Âu với một liên minh kinh tế và tiền tệ châu Âu, có một đồng tiền chung duy nhất. Từ ngày 1-1-1999 đã phát hành đồng tiền chung châu Âu với tên gọi là đồng ơrô (EURO). Tháng 1-2000, đồng EURO được lưu hành trong 12 nước thành viên châu Âu. + Xây dựng một liên minh chính trị mở rộng sang liên kết về chính sách đối ngoại và an ninh, tiến tới một nhà nước chung châu Âu. - Với những bước tiến của quá trình liên kết, Hội nghị quyết định Cộng đồng châu Âu mang tên mới là Liên minh châu Âu (EU) - Tới nay, Liên minh châu Âu là một liên minh kinh tế chính trị lớn nhất thế giới, có tổ chức chặt chẽ nhất và trở thành một trong ba trung tâm kinh tế, tài chính thế giới. Đến năm 1999, số nước thành viên của EU là 15, năm 2004 là 25 nước và đến năm 2007 là 27 nước. Chuyên đề IV. QUAN HỆ QUỐC TẾ TỪ NĂM 1945 ĐẾN NAY I. Hội nghị I-an-ta và sự thành lập trật tự thế giới mới sau chiến tranh - Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn cuối, trong bối cảnh đó, một hội nghị quốc tế được triệu tập tại Ianta - Liên Xô từ ngày 4 đến ngày 11-2- 1945, với sự tham gia của nguyên thủ ba nước Liên Xô, Mĩ, Anh là Xta-lin, Rudơven, Sớcsin. - Hội nghị đã thông qua các quyết định quan trọng: + Thống nhất mục tiêu chung là tiêu diệt tận gốc chủ nghĩa phát xít Đức và chủ nghĩa quân phiệt Nhật. Để nhanh chóng kết thúc chiến tranh, sau khi đánh bại phát xít Đức, Liên Xô sẽ tham chiến chống Nhật ở châu Á. - 26 -
  27. + Thành lập tổ chức Liên Hợp Quốc nhằm duy trì và hòa bình an ninh thế giới. + Thoả thuận về việc đóng quân tại các nước nhằm giải giáp quân đội phát xít và phân chia khu vực ảnh hưởng giữa hai cường quốc Liên Xô và Mĩ. Ở châu Âu: Liên Xô chiếm đóng và kiểm soát vùng Đông Đức và phía đông châu Âu, vùng Tây Đức và Tây Âu thuộc phạm vi ảnh hưởng của Mĩ và Anh. Ở châu Á: Do việc Liên Xô tham chiến đánh Nhật, nên Mĩ và Anh đã chấp nhận những điều kiện của Liên Xô là tôn trọng nền độc lập của Mông Cổ; trả lại cho Liên Xô phía nam đảo Xa-kha-lin; trao trả Trung Quốc vùng đất mà Nhật chiếm đóng trước đây, thành lập Chính phủ liên hiệp dân tộc gốm Quốc dân đảng và Đảng Cộng sản Trung Quốc. Triều Tiên được công nhận là một quốc gia độc lập, nhưng tạm thời quân đội Liên Xô và Mĩ chia nhau kiểm soát và đóng quân ở Bắc và Nam vĩ tuyến 38. Các vùng còn lại ở châu Á (Đông Nam Á, Nam Á) vẫn thuộc phạm vi ảnh hưởng của các nước phương Tây. - Toàn bộ những quyết định của Hội nghị I-an-ta trở thành khuôn khổ của một trật tự thế giới mới mà lịch sử thường gọi là trật tự hai cực I-an-ta do Liên Xô và Mĩ đứng đầu mỗi cực. II. Sự thành lập Liên hợp quốc - Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới thứ 2 bước vào giai đoạn kết thúc, các nước Đồng minh và nhân dân thế giới có nguyện vọng giữ gìn hòa bình, ngăn chặn nguy cơ chiến tranh mới. Tại hội nghị I-an-ta tháng 2-1945, nguyên thủ của ba cường quốc: Liên Xô, Mĩ, Anh đã thống nhất thành lập tổ chức Liên hợp quốc để giữ gìn hòa bình, an ninh và trật tự thế giới sau chiến tranh. - Từ ngày 25-4 đến ngày 26-6-1945, Hội nghị đại biểu của 50 nước họp ở Xan Phran-xix-cô (Mĩ) đã thông qua Hiến chương Liên hợp quốc và tuyên bố thành lập tổ chức Liên hợp quốc. Ngày 24-10-1945, Hiến chương Liên hợp quốc có hiệu lực và ngày nay trở thành ngày kỷ niệm thành lập Liên hợp quốc. - Hiến chương nêu rõ nhiệm vụ chính của Liên hợp quốc là duy trì hòa bình và an ninh thế giới, phát triển mối quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền của các dân tộc, thực hiện sự hợp tác quốc tế về kinh tế, văn hóa, xã hội và nhân đạo - Để thực hiện mục đích nêu trong Hiến chương, Liên hợp quốc hoạt động theo những nguyên tắc sau: + Bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia và quyền tự quyết của các dân tộc. - 27 -
  28. + Tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị của tất cả các nước. + Không can thiệp vào công việc nội bộ của bất cứ nước nào. + Giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình. + Chung sống hoà bình và sự nhất trí giữa 5 cường quốc trong Hội đồng bảo an Liên hợp quốc (Liên Xô, Mĩ, Anh, Pháp, Trung Quốc) - Hiến chương quy định bộ máy tổ chức của Liên hợp quốc gồm các cơ quan chính như: + Đại hội đồng là: hội nghị của tất cả nước thành viên, họp mỗi năm một lần để thảo luận các vấn đề hoặc công việc thuộc phạm vi Hiến chương quy định. + Hội đồng Bảo an là cơ quan giữ vai trò quan trọng trong việc duy trì hòa bình và an ninh thế giới. Hiện nay Hội đồng bảo an gồm 15 nước, trong đó có 5 thường trực không phải bầu lại là Liên Xô (nay là Liên bang Nga), Trung Quốc, Anh, Pháp, Mỹ và 10 nước không thường trực với nhiệm kì hai năm. Mọi quyết định của Hội đồng Bảo an phải đạt được 9/15 phiếu trong đó có sự nhất trí của 5 nước Ủy viên thường trực mới được thông qua và có giá trị. + Ban thư kí là cơ quan hành chính - tổ chức của Liên hợp quốc, đứng đầu là Tổng thư kí do Đại hội đồng bầu ra với nhiệm kì 5 năm. Hiện nay Tổng thư kí Liên hợp quốc là ông Ban -ki-mun (Hàn Quốc). - Ngoài ra Liên hợp Quốc còn có hàng trăm tổ chức chuyên môn khác: Hội đồng kinh tế và xã hội, Toà án Quốc tế, Tổ chức y tế thế giới (WHO) Trụ sở Liên hợp quốc đặt tại NewYork (Mĩ) - Khi mới thành lập Liên hợp quốc có 51 quốc gia thành viên. Đến năm 2006, Liên hợp quốc có 192 quốc gia thành viên. - Từ tháng 9-1977, Việt Nam trở thành thành viên thứ 149 của Liên hợp quốc. Ngày 16-10-2007, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã bầu Việt Nam làm Uỷ viên không thường trực Hội đồng Bảo an, nhiệm kì 2008 - 2009. - Trong hơn nửa thế kỷ qua, Liên hợp quốc đã có vai trò quan trọng trong việc duy trì hoà bình, an ninh thế giới, đấu tranh xoá bỏ chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, giải quyết nhiều cuộc xung đột, vận động bảo tồn và phát triển các giá trị văn hoá, lịch sử, giúp đỡ các nước phát triển kinh tế, văn hóa nhất là đối với các nước Á, Phi, Mĩ Latinh III. Chiến tranh lạnh - 28 -
  29. - Sau Chiến tranh thế giới thứ hai không lâu, hai cường quốc Liên Xô và Mĩ đã nhanh chóng chuyển từ liên minh chống phát xít sang tình trạng ngày càng mâu thuẫn, đối đầu gay gắt. Đó là tình trạng “Chiến tranh lạnh” giữa hai phe tư bản chủ nghĩa đứng đầu là Mĩ và XHCN đứng đầu là Liên Xô, kéo dài phần lớn thời gian trong nửa sau thế kỉ XX. - Chiến tranh lạnh là chính sách thù địch về mọi mặt của Mĩ và các nước đế quốc trong quan hệ với Liên Xô và các nước XHCN. Tổng thống Mĩ Tơruman, là người chính thức phát động cuộc Chiến tranh lạnh. - Mĩ và các nước đế quốc đã ráo riết chạy đua vũ trang, tăng cường ngân sách quân sư, thành lập các khối quân sự, liên minh quân sự cùng các căn cứ quân sự bao quanh Liên Xô và các nước XHCN; tiến hành nhiều cuộc chiến tranh xâm lược, đàn áp cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc. Ngoài ra Mỹ còn tiến hành bao vây cấm vận về kinh tế, cô lập về chính trị và tiến hành các hoạt động phá hoại như đảo chính lật đổ, chiến tranh tâm lí gây tình trạng đối đầu căng thẳng với các nước XHCN. - Trước tình hình bị đe dọa, Liên Xô và các nước XHCN buộc phải tăng cường ngân sách quốc phòng, củng cố khả năng phòng thủ đất nước, thành lập Tổ chức Hiệp ước Vacsava để chống lại khối NATO. - Chiến tranh lạnh đã mang lại những hậu quả hết sức nặng nề. Đó là, thế giới luôn ở trong tình trạng căng thẳng, thậm chí có lúc đứng trước nguy cơ bùng nổ một cuộc chiến tranh thế giới mới. - Tuy đang trong thời kì hòa bình, nhưng các cường quốc đã chi một khối lượng khổng lồ về tiền của và sức người để sản xuất các loại vũ khí hủy diệt, xây dựng các căn cứ quân sự. Trong khi đó loài người vẫn đang phải chịu bao khó khăn do đói nghèo, dịch bệnh, thiên tai gây ra nhất là các nước châu Á và châu Phi. - Sau bốn thập niên chạy đua vũ trang quá tốn kém, cuối cùng tháng 12- 1989, Tổng thống Mĩ Busơ và Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô Goóc-ba-chốp đã cùng nhau tuyên bố chấm dứt Chiến tranh lạnh. IV. Thế giới sau Chiến tranh lạnh - Sau bốn thập niên chạy đua vũ trang quá tốn kém, cuối cùng tháng 12- 1989, Tổng thống Mĩ Busơ và Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô Goóc-ba-chốp đã cùng nhau tuyên bố chấm dứt Chiến tranh lạnh. Từ đó tình hình thế giới có nhiều chuyển biến và diễn ra theo các xu hướng như sau: - Một là, xu thế hòa hoãn và hòa dịu trong quan hệ quốc tế. Từ đầu những năm 90 của thế kỉ XX, các nước lớn tránh xung đột trực tiếp, đối đầu nhau - 29 -
  30. - Hai là, sau khi Trật tự hai cực I-an-ta sụp đổ, thế giới đang tiến tới xác lập một trật tự thế giới mới đa cực, nhiều trung tâm. Nhưng Mĩ lại chủ trương “ thế giới đơn cực” để dễ bề chi phối, thống trị thế giới. - Ba là, dưới tác động to lớn của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật, hầu hết các nước đều ra sức điều chỉnh chiến lược phát triển lấy kinh tế làm trọng điểm. Các nước đều đẩy mạnh sản xuất và tích cực tham gia các liên minh kinh tế khu vực để cùng nhau hợp tác phát triển như Liên minh châu Âu (EU), Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) - Bốn là, tuy hòa bình thế giới được củng cố, nhưng từ đầu những năm 90 của thế kỉ XX ở nhiều khu vực lại xảy ra những vụ xung đột quân sự hoặc nội chiến giữa các phe phái như ở Liên bang Nam Tư cũ, ở châu Phi và một số nước Trung Á. - Tuy nhiên xu thế chung của thế giới ngày nay là hòa bình ổn định và hợp tác phát triển kinh tế. Xu thế này đang đặt các quốc gia dân tộc trong đó có Việt Nam đứng trước những thách thức và thời cơ mới khi bước vào thế kỉ XXI. Chuyên đề V. CUỘC CÁCH MẠNG KHOA HỌC KỸ THUẬT TỪ 1945 ĐẾN NAY I. NGUỒN GỐC VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA CÁCH MẠNG KHOA HỌC KĨ THUẬT TỪ 1945 ĐẾN NAY 1. Nguồn gốc của cuộc cách mạng KHKT lần hai - Đến nay nhân loại đã trải qua hai cuộc cách mạng lớn trong lĩnh vực khoa học kĩ thuật. Đó là cuộc cách mạng công nghiệp thế kỉ XVIII- XIX và cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật đang diễn ra từ những năm 40 trở lại đây. - Cũng như cuộc cách mạng công nghiệp ở các thế kỉ XVIII - XIX, cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật hiện nay diễn ra là do những đòi hỏi của cuộc sống, của sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần ngày càng cao của con người, nhất là trong tình hình bùng nổ dân số thế giới và sự vơi cạn nghiêm trọng các nguồn tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt từ sau Chiến tranh thế giới hai. - Những đòi hỏi bức thiết đó đặt ra cho cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật phải giải quyết, trước hết là chế tạo và tìm kiếm những công cụ sản xuất mới có kĩ thuật và năng suất cao, tạo ra những vật liệu mới. - Chiến tranh thế giới thứ hai và vấn đề quốc phòng đòi hỏi các quốc gia phải sản xuất ra những loại vũ khí hiện đại có tính năng hủy diệt cao. - 30 -
  31. - Thành tựu của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX đã tạo tiền đề và thúc đẩy sự bùng nổ của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật lần hai. 2. Đặc điểm của cách mạng khoa học kĩ thuật lần hai - Đặc điểm lớn nhất của cách mạng khoa học - kĩ thuật ngày nay là khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, khác với cuộc cách mạng công nghiệp thế kỉ XVIII. Trong cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật hiện đại, mọi phát minh về kĩ thuật đều bắt nguồn từ nghiên cứu khoa học. Khoa học gắn liền với kĩ thuật, khoa học đi trước mở đường cho kĩ thuật. Như vậy khoa học đã tham gia trực tiếp vào sản xuất, trở thành nguồn gốc chính của những tiến bộ kĩ thuật và công nghệ. - Trong cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật lần hai, thời gian từ phát minh khoa học đến ứng dụng vào sản xuất ngày càng được rút ngắn. - Cách mạng khoa học kĩ thuật lần hai cho thấy hiệu quả kinh tế ngày càng cao của công tác nghiên cứu khoa học. Đầu tư vào khoa học đem lại nguồn lợi nhuận cao nhất so với đầu tư vào các lĩnh vực khác. II. THÀNH TỰU CHỦ YẾU CỦA CÁCH MẠNG KHOA HỌC KĨ THUẬT LẦN 2 Trải qua hơn nửa thế kỉ, đặc biệt từ thập niên 70 cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật đã thu được những thành tựu to lớn và kì diệu. - Trước hết là trong lĩnh vực khoa học cơ bản, con người đã đạt được những phát minh to lớn, đánh dấu bước phát triển nhảy vọt trong toán học, vật lí, hóa học, sinh học Dựa vào các phát minh lớn của các ngành khoa học cơ bản, con người đã ứng dụng vào kĩ thuật và sản xuất để phục vụ cuộc sống của mình. + Tháng 3-1997, Cừu Đôli được tạo ra bằng phương pháp sinh sản vô tính. Đây là một thành tựu khoa học lớn nhưng cũng gây ra những lo ngại về mặt xã hội và đạo đức như công nghệ sao chép con người. + Tháng 6-2000, tiến sĩ Côlin công bố “Bản đồ gen người”. Với thành tựu khoa học này trong tương lại gần như người ta có thể chữa được các bệnh nan y và kéo dài tuổi thọ con người. - Hai là, những phát minh lớn về công cụ sản xuất mới, trong đó có ý nghĩa quan trọng bậc nhất là sự ra đời của máy tính điện tử, máy tự động và hệ thống máy tự động, người máy (Robot). Máy tính điện tử được đánh giá là một trong những thành tựu quan trọng nhất thế kỉ XX. - Ba là, trong tình trạng các nguồn năng lượng thiên nhiên đang cạn kiệt, con người đã tìm ra các nguồn năng lượng mới hết sức phong phú và hầu như vô tận như năng lượng - 31 -
  32. nguyên tử, năng lượng Mặt trời, năng lượng thủy triều, năng lượng gió Trong đó năng lượng nguyên tử và năng lượng Mặt trời đang dần được sử dụng phổ biến. - Bốn là, sáng chế ra những vật liệu mới thay thế vật liệu thiên nhiên đang cạn kiệt như: chất dẻo Polime đang giữ vị trí quan trọng hàng đầu trong đời sống hàng ngày của con người cũng như trong các ngành công nghiệp. Nhiều loại chất dẻo nhẹ hơn nhôm 2 lần nhưng độ bền và sức chịu nhiệt lại hơn hẳn các loại thép tốt nhất và có thể dùng chế tạo vỏ xe tăng, động cơ tên lửa, máy bay siêu âm (Ti-tan) - Năm là, cuộc cách mạng xanh trong nông nghiệp với các biện pháp cơ khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa và những phương pháp lai tạo giống mới, chống sâu bệnh. Nhờ cuộc cách mạng xanh này nhiều nước đã có thể khắc phục được nạn thiếu lương thực, đói ăn kéo dài bao đời nay. - Sáu là, những tiến bộ thần kì trong lĩnh vực giao thông vận tải và thông tin liên lạc, với những loại máy bay siêu âm khổng lồ, những tàu tốc độ cao, những phương tiện thông tin liên lạc phát sóng hiện đại qua hệ thống vệ tinh nhân tạo. - Bảy là, trong gần nửa thế kỉ qua con người đã có những bước tiến phi thường, những thành tựu kì diệu trong lĩnh vực chinh phục vũ trụ. Từ việc phóng thành công vệ tinh nhân tạo đầu tiên năm 1957, con người đã bay vào vũ trụ năm 1961 và đặt chân lên Mặt trăng năm 1969 Khoa học vũ trụ và du hành vũ trụ ngày càng có nhiều khám phá mới và phục vụ đắc lực trên nhiều phương diện cho cuộc sống con người trên Trái Đất. III. Ý NGHĨA, TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC CÁCH MẠNG KHOA HỌC KĨ THUẬT LẦN HAI - Cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật có ý nghĩa vô cùng to lớn như một cột mốc chói lọi trong lịch sử tiến hóa văn minh của loài người, mang lại những tiến bộ phi thường, những thành tựu kì diệu và những thay đổi to lớn trong cuộc sống của con người. - Cách mạng khoa học kĩ thuật cho phép con người thực hiện những bước nhảy vọt chưa từng thấy về sản xuất và năng xuất lao động, đưa tới những thay đổi lớn về cơ cấu dân cư lao động, đưa loài người chuyển sang một nền văn minh mới- văn minh hậu công nghiệp hay văn minh trí tuệ. - Nhưng mặt khác, cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật cũng mang lại những hậu quả tiêu cực. Đó là việc chế tạo các loại vũ khí và các phương tiện quân sự có sức tàn phá và huỷ diệt sự sống. - 32 -
  33. TỔNG KẾT LỊCH SỬ THẾ GIỚI TỪ SAU NĂM 1945 ĐẾN NAY I. NỘI DUNG CHÍNH CỦA LỊCH SỬ THẾ GIỚI TỪ SAU NĂM 1945 ĐẾN NAY 1. Với những thắng lợi vang dội của Liên Xô và các lực lượng cách mạng trong chiến tranh thế giới thứ hai, CNXH từ phạm vi một nước trở thành hệ thống thế giới, trải dài qua nhiều nước từ châu Âu tới châu Á và lan sang khu vực Mĩ La-tinh. - Trong nhiều thập niên của nửa sau thế kỉ XX với vị thế lớn mạnh về kinh tế, chính trị, quân sự hệ thống XHCN có ảnh hưởng quan trọng đến tiến trình phát triển của thế giới. Nhưng vì phạm phải sai lầm nghiêm trọng trong đường lối chính sách và sự chống phá của các thế lực thù địch, chế độ XHCN đã sụp đổ ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Đó là tổn thất nặng nề chưa từng thấy trong lịch sử phong trào công nhân và cộng sản quốc tế. 2. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, phong trào giải phóng dân tộc ở các nước Á - Phi- Mĩ La-tinh đã giành được những thắng lợi to lớn có ý nghĩa lịch sử. Đó là sự sụp đổ của hệ thống thuộc địa và chế độ phân biệt chủng tộc (A-pác-thai), là sự ra đời của hơn 100 quốc gia độc lập trẻ tuổi. - Sau khi giành độc lập, mặc dù còn gặp nhiều khó khăn, nhiều nước đã đạt được thành tựu to lớn trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế- xã hội của đất nước như: Trung Quốc, Ấn Độ, các nước ASEAN - Hiện nay các nước Á - Phi và Mĩ La-tinh ngày càng tích cực tham gia và có vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế, chính trị thế giới. 3. Sự phát của các nước tư bản chủ yếu như: Mĩ, Nhật, Tây Âu - Sau khi phục hồi nền kinh tế bị chiến tranh tàn phá nặng nề, các nước tư bản chủ nghĩa có sự phát triển nhanh chóng về kinh tế, tiêu biểu là các nước Nhật, Cộng hoà Liên bang Đức - Nét nổi bật của hệ thống TBCN sau năm 1945, là Mĩ đã vươn lên trở thành nước tư bản giàu mạnh nhất, ráo riết theo đuổi mưu đồ bá chủ thế giới, nhưng Mĩ cũng phải chịu những thất bại nặng nề, nhất là trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. - Từ sau năm 1945, các nước tư bản ngày càng có xu hướng liên kết kinh tế khu vực, biểu hiện là sự ra đời của Cộng đồng kinh tế châu Âu (EEC) hơn 40 năm qua - ngày nay là Liên minh châu Âu (EU). Mĩ, EU và Nhật Bản đã trở thành ba trung tâm kinh tế lớn của thế giới. - 33 -
  34. 4. Về quan hệ quốc tế, sau năm 1945, là sự xác lập trật tự thế giới hai cực do hai siêu cường Liên Xô và Mĩ đứng đầu. Thế giới chia thành hai phe và trong tình trạng đối đầu căng thẳng với đỉnh cao là “Chiến tranh lạnh” Cuối cùng do nhiều nguyên nhân, hai siêu cường Liên Xô và Mĩ đã cùng nhau tuyên bố chấm dứt “Chiến tranh lạnh” năm 1989. Về cơ bản, nguy cơ chiến tranh bị đẩy lùi, thế giới chuyển dần sang xu thế hoà hoãn và đối thoại. 5. Cuộc cách mạng KHKT được bắt đầu từ giữa những năm 40 của thế kỉ XX với những tiến bộ phi thường và thành tựu kì diệu. Cuộc cách mạng KHKT có ý nghĩa cực kỳ to lớn, là nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với sự tăng trưởng kinh tế, nâng cao không ngừng mức sống và chất lượng sống của con người. Hơn nữa việc khai thác và áp dụng những tiến bộ của KHKT còn liên quan tới vận mệnh phát triển của đất nước cũng như lịch sử đã từng chứng tỏ. II. PHÂN KỲ LỊCH SỬ THẾ GIỚI HIỆN ĐẠI TỪ NĂM 1945 ĐẾN NAY. - Năm 1991, trật tự hai cực I-an-ta sụp đổ, đây là mốc đánh dấu cho sự phân kì của lịch sử thế giới từ năm 1945 đến nay + Giai đoạn lịch sử từ năm 1945 đến năm 1991, là giai đoạn thế giới phân đôi thành 2 phe XHCN và tư bản chủ nghĩa trong khuôn khổ của trật tự thế giới hai cực Xô - Mĩ. Thế giới hầu như bị tác động và chịu sự chi phối bởi những nhân tố này. + Giai đoạn lịch sử từ sau năm 1991 đến nay - thường được gọi là “sau Chiến tranh lạnh”, là giai đoạn trật tự thế giới cũ đã tan rã và một trật tự thế giới mới đang trong quá trình hình thành theo chiều hướng trật tự thế giới đa cực, với nhiều trung tâm. - Ngày nay, các cường quốc đang ra sức vươn lên, điều chỉnh mối quan hệ theo hướng hoà hoãn, thoả hiệp giữa các nước lớn để có một ưu thế trong trật tự thế giới mới. Đồng thời, dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật, hầu như tất cả cắc quốc gia đang ra sức điều chỉnh chiến lược phát triển với việc lấy kinh tế làm trọng điểm và tích cực mở rộng quan hệ quốc tế để cùng hợp tác phát triển. - Trong giai đoạn sau “Chiến tranh lạnh”, tuy nguy cơ chiến tranh thế giới đã bị đẩy lùi, nhưng hoà bình ở nhiều khu vực lại bị đe doạ nghiêm trọng: xung đột quân sự, nội chiến kéo dài do những mâu thuẫn về sắc tộc, dân tộc, tôn giáo và tranh chấp lãnh thổ. Ở nhiều nước, tình hình lại càng nghiêm trọng với những nguy cơ của chủ nghĩa khủng bố và li khai. - 34 -
  35. - Tuy nhiên, xu hướng chung của thế giới ngày nay là hoà bình, ổn định và hợp tác phát triển. Đây vừa là thời cơ vừa là thách thức đối với các dân tộc khi bước vào thế kỷ XXI. - 35 -
  36. Phần 2. Lịch sử việt Nam từ năm 1919 đến năm 1975 Chuyên đề I. LỊCH SỬ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1919-1930 I. NHỮNG CHUYỂN BIẾN CỦA KINH TẾ, XÃ HỘI VIỆT NAM SAU CÔNG CUỘC KHAI THÁC THUỘC ĐỊA LẦN 2 CỦA THỰC DÂN PHÁP 1. Chuyển biến về kinh tế - Quá trình khai thác thuộc địa của Pháp làm cho kinh tế Việt Nam có sự chuyển biến theo hướng TBCN. Nhiều nhà máy, xí nghiệp, đồn điền mọc lên, nhiều trung tâm kinh tế, chính trị ra đời, một số công trình giao thông được xây dựng - Tuy nền kinh tế Việt Nam có phát triển thêm một bước song về cơ bản vẫn là nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, què quặt, ngày càng lệ thuộc vào kinh tế Pháp. Việt Nam trở thành thuộc địa, thị trường độc chiếm của tư bản Pháp 2. Chuyển biến về xã hội Việt Nam sau chiến tranh thế giới thứ nhất. Thái độ chính trị và khả năng cách mạng của từng giai cấp Dưới tác động của công cuộc khai thác thuộc địa lần 2, xã hội Việt Nam phân hoá sâu sắc. Bên cạnh những giai cấp cũ vẫn còn tồn tại, giờ đã xuất hiện những giai cấp mới. Mỗi giai cấp và tầng lớp xã hội có địa vị, quyền lợi khác nhau, nên có thái độ chính trị khác nhau trong cuộc đấu tranh dân tộc và giai cấp đang ngày càng phát triển. a, Giai cấp địa chủ phong kiến vốn là giai cấp cũ đã đầu hàng làm tay sai cho Pháp. Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, tiếp tục phân hoá và chia làm hai bộ phận, mỗi bộ phận có thái độ chính trị khác nhau trước kẻ thù trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Bộ phận nhỏ là đại địa chủ giàu lên nhờ dựa vào Pháp. Vì thế chúng cấu kết chặt chẽ với Pháp cùng áp bức, bóc lột nhân dân và chống lại cách mạng. Bộ phận lớn là trung và tiểu địa chủ, bị Pháp chèn ép về kinh tế nên ít nhiều có tinh thần chống đế quốc, tham gia phong trào yêu nước khi có điều kiện. b, Giai cấp nông dân chiếm hơn 90% dân số, bị thực dân, phong kiến áp bức bóc lột nặng nề bằng các thủ đoạn sưu cao, thuế nặng, tô tức, phu phen, tạp dịch, cướp đoạt ruộng đất. Giai cấp nông dân Việt Nam vốn giàu lòng yêu nước, căm thù đế quốc và phong kiến, họ là lực lượng hăng hái và đông đảo nhất của cách mạng. c, Giai cấp tư sản ra đời sau chiến tranh thế giới thứ nhất. Trong công cuộc khai thác thuộc địa lần 2, tầng lớp tư sản phần đông làm trung gian cho tư bản Pháp, khi đã kiếm được số vốn khá, họ đứng ra kinh doanh riêng và trở thành những nhà tư sản: Bạch Thái Bưởi, Nguyền Hữu Thu Giai cấp tư sản Việt Nam vừa ra đời đã bị tư bản Pháp chèn ép, kìm hãm nên số lượng ít, thế lực yếu, không cạnh tranh nổi với tư bản Pháp. Trong quá trình phát triển giai cấp tư sản phân hoá thành 2 bộ phận: Tư sản mại bản và tư sản dân tộc.Tầng lớp tư sản mại bản có quyền lợi kinh tế, chính trị gắn liền với đế quốc nên cấu kết chặt chẽ với chúng chống lại dân tộc.Bộ phận tư sản dân tộc có khuynh hướng kinh doanh độc lập, phát triển kinh tế dân tộc nên ít nhiều có tinh thần dân tộc, dân chủ chống đế quốc và phong kiến phản động, nhưng lập trường không kiên định, dễ thoả hiệp khi đế quốc mạnh. d, Giai cấp tiểu tư sản ra đời gần như đồng thời với giai cấp tư sản Việt Nam, bao gồm tiểu thương, tiểu chủ, học sinh, sinh viên, công chức, Giai cấp tiểu tư sản bị đế quốc chèn ép, bạc đãi và khinh rẻ, đời sống bấp bênh, dễ bị xô đẩy vào con đường phá sản và thất nghiệp. Họ có ý thức dân tộc dân chủ, chống thực dân Pháp và tay sai. Đặc biệt, bộ phận trí thức, sinh viên, học sinh có - 36 -
  37. điều kiện tiếp xúc với các trào lưu tư tưởng văn hoá tiến bộ, nên nhạy bén với tình hình chính trị, hăng hái tham gia cách mạng. Đây là một lực lượng cách mạng quan trọng trong cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do của dân tộc. e, Giai cấp công nhân ra đời trước chiến tranh thế giới thứ nhất và tăng nhanh về số lượng, chất lượng sau chiến tranh. Phần lớn tập trung ở các vùng mỏ đồn điền, các thành phố công nghiệp như Hà Nội, Sài Gòn- Chợ Lớn Ngoài đặc điểm chung của giai cấp công nhân quốc tế như đại diện cho phương thức sản xuất tiến bộ, điều kiện sinh sống lao động tập trung. Giai cấp công nhân Việt Nam có những đặc điểm riêng: bị 3 tầng áp bức bóc lột của thực dân, phong kiến, tư sản người Việt; có quan hệ tự nhiên gắn bó với giai cấp nông nhân, kế thừa truyền thống yêu nước anh hùng, bất khuất của dân tộc. Trên cơ sở đó giai cấp công nhân Việt Nam nhanh chóng vươn lên nắm quyền lãnh đạo cách mạng. Tóm lại, sau chiến tranh xã hội Việt Nam phân hoá ngày càng sâu sắc. Tất cả các giai cấp trừ bọn tay sai (đại địa chủ, tư sản mại bản) đều ít nhiều có tinh thần chống đế quốc, có cảm tình với cách mạng, tham gia vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, chống ách thống trị của thực dân Pháp. II. PHONG TRÀO YÊU NƯỚC THEO KHUYNH HƯỚNG DÂN CHỦ TƯ SẢN 1919-1930 - Sau chiến tranh thế giới 1, phong trào dân tộc, dân chủ ở nước ta phát triển mạnh mẽ, thu hút nhiều tầng lớp nhân dân tham gia với nhiều hình thức phong phú và sôi nổi, trước hết là ở các đô thị. Giai cấp tư sản dân tộc và tiểu tư sản thành thị bắt đầu bước lên vũ đài đấu tranh. - Trong lúc chủ nghĩa Mác-Lênin chưa được phổ biến rộng rãi ở Việt Nam thì tư tưởng dân chủ tư sản, nhất là chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn tiếp tục ảnh hưởng vào Việt Nam đã chi phối mạnh mẽ phong trào dân tộc dân chủ theo khuynh hướng dân chủ tư sản. 1. Các phong trào đấu tranh a. Phong trào của giai cấp tư sản dân tộc * Mục tiêu đấu tranh Giai cấp tư sản Việt Nam ra đời sau chiến tranh thế giới thứ nhất, nhưng vừa ra đời đã bị tư bản Pháp chèn ép, kìm hãm nên số lượng ít, thế lực yếu, không cạnh tranh nổi với tư bản Pháp Sau chiến tranh, giai cấp tư sản dân tộc nhân đà làm ăn thuận lợi, muốn vươn lên giành vị trí khá hơn trong nền kinh tế Việt Nam. * Hoạt động tiêu biểu - Họ đã phát động các phong trào như chấn hưng nội hoá, bài trừ ngoại hoá năm 1919, đấu tranh chống độc quyền cảng Sài Gòn và độc quyền xuất cảng lúa gạo ở Nam Kỳ của tư bản Pháp năm 1923. - Ngoài các hoạt động kinh tế, giai cấp tư sản còn dùng báo trí để bênh vực quyền lợi cho mình. Một số tư sản và địa chủ lớn ở Nam Kì, đại biểu là Bùi Quang Chiêu và Nguyễn Phan Long đã thành lập Đảng Lập hiến (1923) để tập hợp lực lượng, đưa ra khẩu hiệu đòi tự do, dân chủ để tranh thủ sự ủng hộ của quần chúng nhằm gây áp lực với Pháp, nhưng lại sẵn sàng thoả hiệp với Pháp khi được chúng nhượng cho một số quyền lợi. - 37 -
  38. * Nhận xét Phong trào của tư sản dân tộc tuy thể hiện được tinh thần yêu nước, trong đấu tranh tư sản dân tộc cố gắng chống lại sự chèn ép của tư bản nước ngoài. Tuy nhiên mục tiêu đấu tranh chủ yếu đòi quyền lợi về kinh tế, các hoạt động bộc lộ tính chất cải lương, giới hạn trong khuân khổ của chế độ thực dân, phục vụ quyền lợi của tầng lớp trên, nên ngày càng xa rời quấn chúng. b. Phong trào của tiểu tư sản trí thức * Mục tiêu - Tầng lớp tiểu tư sản trí thức gồm học sinh, sinh viên, giáo viên bị thực dân Pháp bạc đãi khinh rẻ. Họ có điều kiện tiếp xúc với các trào lưu tư tưởng văn hoá tiến bộ, nên nhạy bén với tình hình chính trị, có tinh thần hăng hái cách mạng và là một lực lượng quan trọng trong cách mạng giải phóng dân tộc - Sau chiến tranh, phong trào đấu tranh của tầng lớp tiểu tư sản diễn ra mạnh mẽ với mục tiêu là chống áp bức, chống cường quyền đòi các quyền tự do dân chủ. * Hoạt động tiêu biểu - Thành lập các tổ chức chính trị như Việt Nam nghĩa đoàn, Hội Phục Việt, Đảng Thanh niên với những hoạt động phong phú, sôi nổi như mít tinh, biểu tình, bãi khoá, - Lập các nhà xuất bản tiến bộ như Cường học tư xã, Nam đồng tư xã , xuất bản báo chí tiến bộ: Chuông rè, An nam trẻ , để cổ động tinh thần yêu nước, đòi các quyền tự do dân chủ. - Trong đấu tranh, tầng lớp tiểu tư sản trí thức đã tổ chức được một số hoạt động gây được tiếng vang lớn như: + Tháng 6-1924 tiếng bom của Phạm Hồng Thái ở Sa Điện - Quảng Châu - Trung Quốc, đã cổ vũ thúc đẩy phong trào tiến lên, mở màn cho thời đại đấu tranh mới của dân tộc. + Phong trào đấu tranh đòi nhà cầm quyến Pháp thả Phan Bội Châu năm 1925, đám tang Phan Châu Trinh (1926). - Trong phong trào yêu nước dân chủ những năm 1925-1928, Việt Nam Quốc dân đảng - tổ chức cách mạng theo khuynh hướng dân chủ tư sản của tư sản dân tộc và tiểu tư sản lớp trên đã được thành lập tháng 12/1927. Nhưng sớm bị thực dân Pháp khủng bố. Tháng 2/1930 khởi nghĩa Yên Bái nổ ra và nhanh chóng bị dập tắt kéo theo sự tan rã của Việt Nam Quốc dân đảng. * Nhận xét - Phong trào của tiểu tư sản nhằm đạt mục tiêu là chống áp bức, chống cường quyền đòi các quyền tự do dân chủ, mang tính chất yêu nước, dân chủ rõ rệt, được quần chúng ủng hộ. - Điểm tích cực của phong trào là diễn ra sôi nổi, mạnh mẽ, có tác dụng thức tỉnh tinh thần yêu nước, truyền bá tư tưởng tự do dân chủ, tư tưởng cách mạng mới trong nhân dân. Song tầng lớp tiểu tư sản đấu tranh còn bồng bột, sốc nổi, chưa có chính Đảng lãnh đạo. Nhìn chung, phong trào dân tộc dân chủ công khai ở nước ta thời kì này phát triển mạnh mẽ, lôi cuốn đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia, với những hình thức đấu tranh phong phú , sôi nổi. III. HOẠT ĐỘNG CÁCH MẠNG CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC TỪ 1919-1925 1. Nguyễn Ái Quốc ở Pháp (1917-1923) - 38 -
  39. - Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, các nước đế quốc thắng trận họp ở Véc-xai ngày 18-6-1919 để chia lại thị trường thế giới. Nguyễn Ái Quốc thay mặt những người Việt Nam yêu nước sống ở Pháp đã đưa tới hội nghị Bản yêu sách của nhân dân An Nam đòi Chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền tự do, dân chủ, quyền bình đẳng và quyền tự quyết của dân tộc Việt Nam. Những yêu sách nói trên không được chấp nhận, nhưng đã có tiếng vang lớn đối với nhân dân Việt Nam, nhân dân Pháp và nhân dân các thuộc địa của Pháp. - Tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lê-nin. Luận cương đã chỉ cho Người thấy con đường giải phóng dân tộc đúng đắn đó là con đường cách mạng vô sản, từ đó Người hoàn toàn tin theo Lê-nin, dứt khoát đứng về Quốc tế thứ ba - Tại Đại hội của Đảng Xã hội Pháp họp ở Tua tháng 12/1920, Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế thứ ba và tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện này đánh dấu bước ngoặt trong hoạt động cách mạng của Người từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác-Lênin và đi theo con đường cách mạng vô sản. - Năm 1921, được sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản Pháp, Nguyễn Ái Quốc cùng một số người yêu nước của các thuộc địa Pháp sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa ở Pa-ri để đoàn kết các lực lượng cách mạng chống chủ nghĩa thực dân và truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin đến các dân tộc thuộc địa. Tờ báo Người cùng khổ do Nguyễn Ái Quốc làm chủ nhiệm, kiêm chủ bút đã vạch trần chính sách đàn áp, bóc lột dã man của chủ nghĩa đế quốc nói chung và đế quốc Pháp nói riêng, thức tỉnh các dân tộc bị áp bức nổi dậy đấu tranh tự giải phóng. - Nguyễn Ái Quốc còn viết nhều bài cho các báo Nhân đạo, Đời sống của công nhân và cuốn sách Bản án chế độ thực dân Pháp. Mặc dù bị nhà cầm quyền Pháp tìm mọi cách ngăn chặn, cấm đoán, các sách báo nói trên vẫn được bí mật chuyển về Việt Nam, góp phần tố cáo tội ác của thực dân Pháp, truyền bá tư tưởng cách mạng của chủ nghĩa Mác- Lê nin, thức tỉnh đồng bào trong nước. 2. Nguyễn Ái Quốc ở Liên Xô (1923-1924) - Tháng 6-1923, Nguyễn Ái Quốc rời nước Pháp sang Liên Xô dự Hội nghị Quốc tế nông dân và được bầu vào Ban chấp hành. Sau đó, Người ở lại Liên Xô một thời gian, vừa làm việc, vừa nghiên cứu học tập chủ nghĩa Mác- Lênin và kinh nghiệm thực tiễn của cách mạng tháng Mười. - Tại Đại hội lần thứ V Quốc tế Cộng sản năm 1924, Nguyễn Ái Quốc trình bày lập trường, quan điểm của mình về vị trí, chiến lược của cách mạng ở các nước thuộc địa; về mối quan hệ giữa phong trào công nhân ở các nước đế quốc với phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa; về vai trò và sức mạnh to lớn của giai cấp nông dân ở các nước thuộc địa. - Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về cách mạng giải phóng thuộc địa trong thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vô sản mà Nguyễn Ái Quốc tiếp nhận, truyền bá - 39 -
  40. vào nước ta từ sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, là một bước chuẩn bị quan trọng về chính trị và tư tưởng cho sự thành lập chính đáng vô sản ở Việt Nam trong giai đoạn tiếp sau. 3. Nguyễn Ái Quốc ở Trung Quốc (1924-1927) - Sau một thời gian ở lại Liên Xô học tập và nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng đảng kiểu mới, cuối năm 1924 Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu - Trung Quốc để thực hiện dự định huấn luyện quần chúng đấu tranh. Người tiếp xúc với các nhà cách mạng Việt Nam có mặt tại đây, cùng một số thanh niên mới từ trong nước sang để thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, trong đó tổ chức Cộng sản đoàn làm nòng cốt tháng 6 năm 1925. - Từ 1925-1927 tại Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc trực tiếp mở nhiểu lớp huấn luyện chính trị để đào tạo một số thanh niên Việt Nam trở thành những cán bộ cách mạng. Báo Thanh niên được xuất bản năm 1925 làm cơ quan tuyên truyền của Hội. Các bài giảng của Người trong các lớp đào tạo cán bộ ở Quảng Châu sau đó được tập hợp lại và in thành sách Đường Kách mệnh đầu năm 1927, vạch ra những phương hướng cơ bản của cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam. Một số người được chọn đi học trường Đại học Phương Đông ở Liên Xô, một số được cử đi học quân sự ở Liên Xô hay Trung Quốc, còn phần lớn lên đường về nước hoạt động. - Tác phẩm Đường Kách mệnh, báo Thanh niên đã được bí mật chuyển về trong nước, đúng vào lúc phong trào yêu nước và dân chủ đang sôi nổi từ Nam ra Bắc trên cơ sở giai cấp công nhân đang lớn mạnh nên càng có điều kiện đi sâu vào quần chúng. Đến trước Đại hội đại biểu lần thức nhất tháng 5-1929, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã có tổ chức cơ sở ở hầu khắp cả nước. Ngoài ra, một số đoàn thể quần chúng như Công hội, Nông hội, Hội học sinh, hội phụ nữ cũng được tổ chưc. - Năm 1928, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên có chủ trương “vô sản hóa”- đưa hội viên vào các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền cùng sống và lao động với công nhân để tự rèn luyện, đồng thời truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin, tổ chức và lãnh đạo công nhân đấu tranh. - Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Nguyễn Ái Quốc, đến năm 1929 Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã xây dựng được cơ sở ở khắp nơi. Sự ra đời và hoạt động của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên là bước chuẩn bị cần thiết cho việc nâng cao trình độ độ giác ngộ của giai cấp công nhân Việt Nam, chuẩn bị về chính trị, tổ chức và cán bộ cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam sau này. IV. CÁC TỔ CHỨC YÊU NƯỚC CÁCH MẠNG RA ĐỜI VÀ HOẠT ĐỘNG (1925- 1930) 1. Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên a. Sự thành lập Cuối 1924, Nguyễn Ái Quốc rời Liên Xô về Quảng Châu - Trung Quốc, Người đã tiếp xúc với các nhà cách mạng Việt Nam có mặt tại đây, tìm hiểu về tổ chức “Tâm tâm xã”. Sau đó cùng một số thanh niên hăng hái trong Tâm tâm xã thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tháng 6-1925, hạt nhân là nhóm Cộng sản đoàn, báo Thanh niên là cơ quan ngôn luận. - 40 -
  41. b. Chủ trương, tổ chức và hoạt động * Chủ trương Sau khi ra đời, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã công bố chương trình, điều lệ, thể hiện rõ lập trường chính trị cũng như nguyên tắc tổ chức của mình.Trong chương trình hành động, Hội tuyên bố mục đích là làm cách mạng dân tộc, sau đó làm cách mạng thế giới và thực hiện chủ nghĩa cộng sản * Tổ chức, Hội có 5 cấp: Tổng bộ, Kỳ bộ, Tỉnh bộ, Huyện bộ và Chi bộ ở trong và ngoài nước, hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Cơ quan lãnh đạo cao nhất là Tổng bộ, trong đó có Nguyễn Ái Quốc, Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu. Trụ sở của Tổng bộ đặt tại Quảng Châu * Hoạt động - Hoạt động quan trọng đầu tiên của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên là mở lớp huấn luyện chính trị do Nguyễn Ái Quốc trực tiếp viết bài và giảng dạy để đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam. Từ 1925-1927, Hội đào tạo được 75 hội viên. Trong đó, một số được chọn đi học tiếp ở Liên Xô hoặc Trung Quốc, còn phần lớn trở về nước hoạt động. Những bài giảng trong các lớp đào tạo được tập hợp lại in thành sách Đường cách mệnh xuất bản năm 1927. Tác phẩm đã vạch ra những phương hướng cơ bản của cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam. - Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, sáng lập tuần báo Thanh niên năm 1925, bằng tiếng Việt để tuyên truyền giáo dục quần chúng. Báo Thanh niên cùng với tác phẩm Đường cách mệnh được bí mật chuyển về nước, đúng lúc phong trào yêu nước và dân chủ đang sôi nổi từ Nam ra Bắc trên cơ sở giai cấp công nhân đang lớn mạnh nên càng có điều kiện đi sâu vào quần chúng. - Năm 1928, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên có chủ trương “vô sản hoá” đưa hội viên vào các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền để tự rèn luyện, đồng thời truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin, tổ chức và lãnh đạo công nhân đấu tranh. Đến trước Đại hội đại biểu lần thứ nhất tháng 5- 1929, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã có tổ chức cơ sở hầu khắp cả nước. Sự ra đời của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên là mốc quan trọng đánh dấu sự phát triển của cách mạng nước ta. Lần đầu tiên ở Việt Nam xuất hiện một tổ chức chính trị theo xu hướng vô sản. Hội là tổ chức tiền thân của Đảng cộng sản Việt Nam. 2. Tân việt Cách mạng Đảng a. Sự thành lập - Khi Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ra đời ở Quảng Châu, thì ở trong nước Tân Việt Cách mạng Đảng cũng ra đời. - Tiền thân của Tân Việt cách mạng Đảng là Hội phục Việt, do một nhóm sinh viên Trường Cao đẳng Sư phạm Đông Dương như Tôn Quang Phiệt, Đặng Thai Mai và nhóm tù chính trị ở Trung Kì lập ra năm 1925. Bị lộ sau khi rải truyền đơn đòi nhà cầm quyền Pháp thả Phan Bội Châu, Hội Phục Việt đã nhiều lần đổi tên, cuối cùng lấy tên là Tân Việt Cách mạng đảng tháng 7 năm 1928. - Đảng Tân Việt là tổ chức chính trị của những trí thức trẻ và thanh niên tiểu tư sản yêu nước, hoạt động chủ yếu ở Trung Kì. b. Chủ trương, tổ chức và hoạt động * Chủ trương của Tân Việt là lãnh đạo nông dân,công nhân, binh lính trong nước liên lạc với các dân tộc trên thế giới đánh đổ đế quốc, thành lập một xã hội bác ái. * Tổ chức - 41 -
  42. Hệ thống tổ chức của Tân Việt gồm 6 cấp: Tổng bộ, Kỳ bộ, Liên tỉnh bộ, Tỉnh bộ, Đại bộ và Tiểu tổ cơ sở. * Hoạt động - Ra đời và hoạt động trong điều kiện Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên phát triển mạnh và có ảnh hưởng lớn. Hoạt động của Tân Việt chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Tân Việt cũng tiến hành công tác giáo dục, huấn luyện Đảng viên, mở lớp học ban đêm, phổ biến sách báo Mác- xít, thực hiện chủ trương vô sản hoá. - Trong quá trình hoạt động, nội bộ Tân Việt phân hoá sâu sắc theo 2 khuynh hướng rõ rệt: vô sản và tư sản. Cuối cùng xu hướng cách mạng theo quan điểm vô sản chiếm ưu thế. Một số đảng viên tiên tiến của Đảng Tân Việt đã chuyển sang Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, tích cực chuẩn bị tiến tới thành lập đảng kiểu mới theo chủ nghĩa Mác- Lênin. Những đảng viên tích cực còn lại của Tân Việt sau này đã thành lập tổ chức cộng sản lấy tên là: Đông Dương Cộng sản Liên đoàn tháng 9-1929 Tân Việt Cách mạng đảng ra đời chứng tỏ tinh thần yêu nước và nguyện vọng cứu nước của thanh niên trí thức tiểu tư sản. Sự chuyển biến về tư tưởng và tổ chức theo Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên là phù hợp với xu thế phát triển tất yếu của phong trào yêu nước lúc đó. 3.Việt Nam Quốc dân đảng tháng 12/1927 a, Sự thành lập - Không bao lâu khi Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và Tân Việt Cách mạng đảng ra đời thì Việt Nam Quốc dân đảng cũng được thành lập 25-12-1927 - Cơ sở hạt nhân đầu tiên của đảng là Nam Đồng thư xã, một nhà xuất bản tiến bộ, tập hợp một nhóm thanh niên yêu nước chưa có đường lối chính trị rõ rệt. Địa bàn hoạt động chủ yếu ở Bắc Kì. b, Chủ trương, tổ chức và hoạt động * Chủ trương - Việt Nam Quốc dân đảng, là đảng cách mạng theo khuynh hướng dân chủ tư sản, tiêu biểu cho bộ phận tư sản dân tộc do Nguyễn Thái Học, Phó Đức Chính, Phạm Tuấn Tài sáng lập. Khi mới hành lập, Đảng chưa có tôn chỉ, mục đích rõ ràng mà chỉ nêu chung chung là trước làm cách mạng quốc gia sau làm cách mạng thế giới. - Về sau do sự phát triển của phong trào dân tộc dân chủ và ảnh hưởng của tư tưởng tư sản từ bên ngoài, nhất là ảnh hưởng của chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn, Việt Nam Quốc dân đảng xác định tôn chỉ, mục đích là: làm cách mạng dân tộc, xây dựng dân chủ, giúp đỡ các dân tộc bị áp bức. * Tổ chức - Việt Nam Quốc dân đảng chủ trương xây dựng 4 cấp: Tổng bộ, Kỳ bộ, Tỉnh bộ, Chi bộ, nhưng chưa bao giờ tổ chức thành một hệ thống trong cả nước. - Thành phần Đảng viên trong Việt Nam Quốc dân đảng ô hợp và phức tạp bao gồm: sinh viên, công chức, tư sản lớp dưới, phú nông, thân hào địa chủ, và cả một số binh lính người Việt trong quân đội Pháp. * Hoạt động - Việt Nam Quốc dân đảng chủ trương tiến hành bạo động vũ trang, ít chú ý đến tuyên truyền, vận động. đảng không có cơ quan ngôn luận hoặc tài liệu văn kiện chính thức để giải thích - 42 -
  43. tôn chỉ, mục đích của mình, do đó dẫn tới việc kết nạp đảng viên một cách bừa bãi, thiếu cơ sở, đồng thời gây nên tình trạng mơ hồ về lập trường chính trị của Đảng - Do không có lý luận cách mạng làm cơ sở cho đường lối và phương pháp đấu tranh nên hoạt động của Việt Nam Quốc dân đảng thường thiên về quân sự, nặng về ám sát, khủng bố cá nhân. Hậu quả là Đảng thành lập chưa được bao lâu, hệ thống tổ chức mới được xây dựng ở một số địa phương, thì đã bị thực dân Pháp khủng bố dữ dội, Đảng lâm vào tình thế bị động đối phó, hoạt động của đảng gặp nhiều khó khăn. - Ngày 9/ 2/1929, Việt Nam Quốc dân đảng tổ chức vụ ám sát tên trùm mộ phu Badanh ở Hà Nội. Sau đó Pháp tiến hành nhiều cuộc vây ráp lớn. Hàng loạt đảng viên và quần chúng cảm tình với đảng bị bắt, nhiều cơ sở Đảng bị phá vỡ, hầu hết cán bộ từ Trung ương đến địa phương đều sa lưới giặc - Bị động trước tình thế, mặc dù hệ thống tổ chức của Đảng chưa kịp xây dựng và củng cố lại, lực lượng đang bị tổn thất nặng, những cán bộ lãnh đạo chủ chốt còn lại của Đảng đã quyết định dốc hết lực lượng còn lại tiến hành khởi nghĩa với tinh thần “không thành công cũng thành nhân”. Khởi nghĩa Yên Bái (2/1930) thất bại kéo theo sự tan rã của Việt Nam Quốc dân đảng. Tóm lại, Việt Nam Quốc dân đảng là một đảng vừa non yếu lại không vững chắc về tổ chức và lãnh đạo, chưa có đường lối chính trị độc lập nên không đủ khả năng đảm nhiệm vai trò lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam. V. SỰ RA ĐỜI CỦA BA TỔ CHỨC CỘNG SẢN NĂM 1929 1. Hoàn cảnh lịch sử - Từ cuối 1928 đến đầu 1929, phong trào cách mạng ở nước ta, đặc biệt là phong trào công nông theo con đường cách mạng vô sản, đã phát triển mạnh mẽ. Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên không còn đủ sức lãnh đạo cách mạng. Tình hình đó đặt ra yêu cầu là phải thành lập một Đảng cộng sản để tổ chức và lãnh đạo giai cấp công nông cùng các lực lượng yêu nước và cách mạng khác đấu tranh chống đế quốc và phong kiến tay sai, giành độc lập tự do. - Cuối tháng 3-1929, một số hội viên tiên tiến của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Bắc Kì họp tại số nhà 5D phố Hàm Long - Hà Nội để thành lập chi bộ công sản đầu tiên gồm 7 người (Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh, Đỗ Ngọc Du, Trịnh Đình Cửu, Trần Văn Cung, Dương Hạc Đính, Nguyễn Tuân). Chi bộ mở rộng cuộc vận động để thành lập một Đảng cộng sản nhằm thay thế Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. - Tại Đại hội toàn quốc lần thứ nhất của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tháng 5/1929, đã diễn ra cuộc đấu tranh giữa hai khuynh hướng cần thiết hay chưa cần thiết thành lập Đảng cộng sản ở Việt Nam. 2. Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản - Khi kiến nghị thành lập Đảng cộng sản không được chấp nhận, đoàn đại biểu Bắc Kì bỏ Đại hội về nước và ngày 17/6/1929, tuyên bố thành lập Đông Dương Cộng sản đảng, thông qua Tuyên ngôn, Điều lệ của Đảng, ra báo Búa liềm làm cơ quan ngôn luận. - Sự thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng đã tạo đà thúc đẩy trực tiếp đối với sự ra đời của các tổ chức cộng sản tiếp theo. - Trước ảnh hưởng ngày càng lan rộng của Đông Dương Cộng sản Đảng, hội viên tiên tiến còn lại của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Trung Quốc và Nam Kì quyết định thành lập An Nam Cộng sản đảng tháng 8/1929. - 43 -