Đề thi chọn học sinh giỏi cấp tỉnh môn Ngữ văn Lớp 12 - Năm học 2014-2015 - Trường THPT Hoàng Hoa Thám

doc 4 trang thungat 8080
Bạn đang xem tài liệu "Đề thi chọn học sinh giỏi cấp tỉnh môn Ngữ văn Lớp 12 - Năm học 2014-2015 - Trường THPT Hoàng Hoa Thám", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docde_thi_chon_hoc_sinh_gioi_cap_tinh_mon_ngu_van_lop_12_nam_ho.doc

Nội dung text: Đề thi chọn học sinh giỏi cấp tỉnh môn Ngữ văn Lớp 12 - Năm học 2014-2015 - Trường THPT Hoàng Hoa Thám

  1. SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO LÂM ĐỒNG TRƯỜNG THPT HOÀNG HOA THÁM ĐỀ THI CHỌN HỌC SINH GIỎI CẤP TỈNH MÔN NGỮ VĂN Năm học 2014 – 2015 Thời gian: 180 phút Phần I: ĐỌC – HIỂU (8,0 điểm) Đọc đoạn thơ và trả lời câu hỏi: “Con ong làm mật yêu hoa Con cá bơi, yêu nước; con chim ca, yêu trời Con người muốn sống, con ơi Phải yêu đồng chí, yêu người anh em. Một ngôi sao, chẳng sáng đêm Một thân lúa chín, chẳng nên mùa vàng. Một người - đâu phải nhân gian? Sống chăng, một đốm lửa tàn mà thôi!” (Tố Hữu - Tiếng ru) 1. Đoạn thơ trên viết theo thể thơ gì? Xác định nội dung chính của đoạn thơ? 2. Những câu thơ trên gợi cho anh (chị) suy nghĩ gì về lẽ sống của con người trong xã hội hiện nay (Viết bài văn ngắn khoảng 400 từ)? Phần II: LÀM VĂN (12 điểm) Có ý kiến cho rằng: “Văn học là tiếng kêu khắc khoải của con người trước một thực tại chưa bao giờ bằng lòng”. Anh( chị) hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy làm sáng tỏ ý kiến trên bằng một tác phẩm đã học trong chương trình? . Hết SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO LÂM ĐỒNG TRƯỜNG THPT HOÀNG HOA THÁM ĐÁP ÁN VÀ BIỂU ĐIỂM ĐỀ THI CHỌN HỌC SINH GIỎI CẤP TỈNH MÔN NGỮ VĂN Năm học 2014 – 2015 Thời gian: 180 phút Phần I: ĐỌC – HIỂU
  2. I. Yêu cầu về kỹ năng: - Học sinh có kĩ năng đọc – hiểu văn bản. - Học sinh vận dụng được các kĩ năng làm một bài văn nghị luận xã hội, biết kết hợp nhuần nhuyễn các thao tác lập luận: giải thích, chứng minh, bình luận, phân tích vấn đề. - Bài viết cần có luận điểm rõ ràng, luận cứ đầy đủ, lập luận chặt chẽ, biết kết hợp nghị luận với biểu cảm. - Diễn đạt mạch lạc, dùng từ chính xác, không mắc lỗi chính tả và viết câu. Khuyến khích những bài viết sáng tạo, chữ đẹp. II. Yêu cầu về kiến thức Học sinh đảm bảo được một số ý cơ bản sau: 1. Đoạn thơ viết theo thể thơ lục bát (phá luật ở câu 2 trong đoạn). Nội dung đoạn thơ: tả thực một loạt sự vật: con ong, con cá, con chim trong mối quan hệ, gắn kết với môi trường sống; triết lí: một thân lúa chín - chẳng thể làm nên mùa vàng, một người – không thể tạo thành nhân gian. Từ đó, liên hệ và đúc kết bài học sống cho con người: sống để yêu thương tất thảy; tự nguyện sống hòa nhập, gắn bó cá nhân với cộng đồng. 2. - Giới thiệu chính xác vấn đề cần nghị luận. Khái quát nội dung đoạn thơ. - Từ đoạn thơ, khái quát chính xác vấn đề xã hội cần nghị luận: + Lẽ sống đẹp của con người trong xã hội: sống để yêu thương, dâng hiến ; cá nhân tự nguyện gắn bó với cộng đồng mới hình thành môi trường sống rộng lớn, giàu tính nhân văn; sống cho những điều lớn lao của xã hội và đất nước. + Đây là vấn đề có ý nghĩa xã hội, thời sự và ý nghĩa nhân sinh sâu sắc, liên quan tới nhận thức, lối sống và hành động của con người. Đặc biệt là thời kinh tế thị trường, khi mà những giá trị tình cảm của con người với con người trong xã hội đang có những thay đổi. - Phân tích, chứng minh, bình luận: + Phân tích những biểu hiện cụ thể, chỉ rõ nguyên nhân, đánh giá hiệu quả tích cực của hành động và lẽ sống yêu thương giữa người với người trong xã hội. (Lấy dẫn chứng từ thực tế đời sống để chứng minh từng biểu hiện) + Bác bỏ, phê phán, chỉ rõ tác hại của lối sống thờ ơ, dửng dưng, ích kỉ của một số người trong xã hội hiện nay. (Lấy dẫn chứng từ thực tế đời sống để chứng minh) - Rút ra bài học: + Đoạn thơ là lời giáo dục, là triết lí nhẹ nhàng, sâu sắc và thấm thía về lẽ sống đẹp cho mỗi con người trong cuộc đời mà nhà thơ Tố Hữu muốn gửi đến bạn đọc. + Con người sống cần phải biết yêu thương và sẵn sàng dâng hiến; mỗi cá nhân cần phải có mối liên hệ gắn kết khăng khít với cộng đồng. BIỂU ĐIỂM - Điểm 7-8 : Bài làm hoàn chỉnh về nội dung, đáp ứng yêu cầu của đề. Văn viết có cảm xúc. Phương pháp làm bài tốt, có sai sót vài lỗi chính tả, dùng từ. - Điểm 5-6 : Đảm bảo khá đầy đủ về phần nội dung. Nắm vững phương pháp làm bài, có sai sót không đáng kể về lỗi chính tả, dùng từ. - Điểm 3-4 : Đảm bảo gần đầy đủ về nội dung nhưng bình luận chưa sâu. Nắm vững phương pháp làm bài song còn một số sai sót về lỗi diễn đạt và chính tả. - Điểm 1-2 : Chưa đảm bảo đầy đủ về nội dung. Văn viết chưa lưu loát, còn sai sót về diễn đạt, chính tả. Điểm 0: Lạc đề, bỏ giấy trắng. Phần II: LÀM VĂN I. Yêu cầu về kĩ năng: - Học sinh biết cách làm bài nghị luận văn học, cụ thể là nghị luận về một vấn đề bàn về văn học, biết vận dụng kết hợp các thao tác nghị luận để giải quyết vấn đề theo định hướng của đề. - Bài làm có kết cấu chặt chẽ, hành văn trong sáng, biểu cảm, không mắc lỗi diễn đạt.
  3. II. Yêu cầu về kiến thức: Học sinh có thể triển khai theo nhiều cách nhưng về cơ bản cần đảm bảo các ý chính sau: 1. Trình bày cách hiểu về ý kiến: * Nhận xét chung: - Văn học từ xưa đến nay có sứ mệnh giải thoát con người khỏi những ẩn ức của xúc cảm bị kìm nén. Và chỉ khi đến với văn chương, sống trong thế giới của văn chương con người mới có thể bộc lộ trọn vẹn nhất mà cũng cụ thể, tỉ mỉ nhất tất cả những khát vọng “đang ngấm ngầm diễn ra” trong lòng mình. - Văn học không thể tách rời cuộc sống vì cuộc sống là suối nguồn vô tận của văn học. Nhưng văn học không phải chỉ phản ánh hiện thực như cái đã có, đang có mà còn phản ánh cả những cái sẽ có và cần phải có. Vì vậy địa hạt của văn chương không phải chỉ gói trọn trong thế giới hiện thực vật chất bình thường, nó chỉ thực sự bất tử, thực sự “nằm ngoài quy luật của sự băng hoại” (Sê đrin) khi nó vút lên cái tinh thần của loài người, đó là “tiếng kêu khắc khoải của con người trước một thực tại chưa bao giờ bằng lòng”. Ý kiến trên đã bao hàm đầy đủ nội dung, ý nghĩa và sứ mệnh của văn học trong cuộc đời. * Giải thích cụ thể: - Con người chưa bao giờ bằng lòng với thực tại. Đó là chân lí và cũng là lẽ sống đẹp đẽ nhất của sứ mệnh làm người. Dù muốn hay không, con người vẫn luôn theo đuổi những ước mơ và hoài bão vượt lên thực tại, chính điều đó mà con người vĩ đại. - Nhưng trên hành trình vượt lên ấy con người luôn gặp phải những bi kịch, không chỉ là bi kịch của tài năng, nhân cách, của sự xung đột mang tính triết học của những cặp phạm trù mà còn có những bi kịch bị kìm toả bởi hoàn cảnh, bởi thực tại Gánh trên vai sức nặng khủng khiếp ấy, con người tìm đến văn chương như một sự giải thoát, một nơi nương tựa. - Văn học thực thi thiên chức đẹp đẽ nhất của nó: “nó đã ra đời giữa những vui buồn của loài người và nó sẽ kết bạn với loài người cho đến ngày tận thế” (Hoài Thanh). Nghĩa là, giữa những khúc hoan ca ngây ngất hay giữa những nỗi đớn đau tuyệt vọng, con người chưa bao giờ nguôi ngoai khát vọng mãnh liệt của mình. Vì thế mà văn học “là tiếng kêu khắc khoải của của con người trước một thực tại chưa bao giờ bằng lòng”. Câu nói khẳng định giá trị đích thực của văn chương trong cuộc đời. Chừng nào còn có mặt con người trên thế gian này thì chừng ấy văn chương còn tồn tại để cất lên tiếng kêu khắc khoải và da diết về cõi nhân sinh. 2. Bình luận: - “Trên trái đất này không có gì làm người ta hài lòng ( ) cũng như chính trị, văn học là một hoàn động nhằm chống lại những cái chưa hoàn thiện của con người” (B. Brecht). Đó là những giấc mơ dang dở, những nỗi niềm, bi kịch vì sự chưa bao giờ được thoả mãn của con người. - Để nuôi dưỡng những giấc mơ, người ta tìm kiếm ở văn chương, biến văn chương thành nơi chốn để ký thác những tâm tư, những ẩn ức của chính mình. Vì thế, văn chương luôn hoà cùng nhịp thở con người, luôn phập phồng trong những bi kịch và ước vọng muôn thuở. 3. Biểu hiện cụ thể: Học sinh chọn một tác phẩm để làm sáng tỏ ý kiến trên. 4. Đánh giá: Mỗi tác phẩm văn học là một tiếng nói riêng, nhưng dù hồ hởi, hân hoan hay điềm đạm, thâm trầm, dù thảng thốt, day dứt hay dữ dội, mãnh liệt thì cũng đều da diết, khắc khoải trước “thực tại chưa bao giờ bằng lòng” - Nhờ tiếng kêu ấy, văn học mang trong nó những giá trị lớn lao và sức sống bất diệt. - Trong quá trình hoàn thiện nhân cách của con người, trong cuộc đấu tranh để phát triển chính nghĩa của nhân loại, trong hành trình vươn tới sự hoàn mĩ, văn học không chỉ là tiếng nói tri âm của con người, nó còn là một phương tiện, một giải pháp để con người bộc lộ trọn vẹn bản thân mình vì “Thiên chức của nhà văn là gieo chủ nghĩa nhân đạo sáng ngời chân lí đến từng con người trên Trái đất” (Aimatop). BIỂU ĐIỂM: - Điểm 12 - 11: Đảm bảo đầy đủ các yêu cầu trên, diễn đạt mạch lạc, phân tích có chiều sâu, biết tổng hợp, đánh giá vấn đề. Nắm chắc kiến thức về lí luận , có hiểu biết cơ bản về tác phẩm.
  4. - Điểm 10 - 9 : Tương đối đủ các yêu cầu trên, phân tích chưa thật sắc sảo song tỏ ra hiểu kỹ vấn đề, nắm chác tác phẩm. Văn mạch lạc, trong sáng. Mắc lỗi không đáng kể. - Điểm 8- 7 : Nắm được yêu cầu của đề bài tuy nhiên các ý chưa thật đầy đủ . Phân tích chung chung, chưa nắm được bản chất của vấn đề, chưa hiểu tác phẩm. - Điểm 6 - 5 : Chỉ trình bày được một nửa số ý. Chưa nắm được chi tiết. Còn mắc lỗi diễn đạt, trình bày - Điểm 4- 3 : Bài làm sơ sài, chưa hiểu rõ yêu cầu của đề bài, diễn đạt còn lủng củng. - Điểm 2 - 1 :Chỉ viết được đoạn văn ngắn không rõ nghĩa, diễn đạt kém. Lưu ý: Giám khảo vận dụng linh hoạt biểu điểm, cho điểm khuyến khích những bài viết sáng tạo, có chất văn.