Sáng kiến kinh nghiệm Vận dụng nguyên tắc dạy học liên môn của các môn học khác vào bài dạy những chuyển biến trong đời sống kinh tế - Lịch sử 6
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Vận dụng nguyên tắc dạy học liên môn của các môn học khác vào bài dạy những chuyển biến trong đời sống kinh tế - Lịch sử 6", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_van_dung_nguyen_tac_day_hoc_lien_mon_c.doc
Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Vận dụng nguyên tắc dạy học liên môn của các môn học khác vào bài dạy những chuyển biến trong đời sống kinh tế - Lịch sử 6
- MỤC LỤC Nội dung Trang 1. MỞ ĐẦU 2 1.1. Lí do chọn đề tài 2 1.2. Mục đích nghiên cứu 4 1.3. Đối tượng nghiên cứu 4 1.4. Phương pháp nghiên cứu 4 1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm 5 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 6 2.1. Cơ sở lí luận 6 2.2. Thực trạng vấn đề 7 2.2.1:Thực trạng của dạy học lịch sử hiện nay 7 2.2.2:Thực trạng của dạy học tích hợp hiện nay 8 2.2.3:.Thực trạng của bài dạy những chuyển biến trong đời sống kinh tế hiện nay 9 2.3: Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề 11 2.3.1. Các nguyên tắc tích hợp 11 2.3.2: Tìm hiểu chương trình, SGK các môn học khác -> Chọn các nội dung có liên quan đến bộ môn Lịch Sử. 11 2.3: Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề 12 2.4. Hiệu quả của SKKN 34 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 35 3.1. Kết luận 35 3.2. Kiến nghị 36 TLTK- Danh mục SKKN 37-38 1
- 1. MỞ ĐẦU 1.1.Lý do chọn đề tài Dạy học liên môn là một trong những nguyên tắc quan trọng trong dạy học. Đây được coi là một quan niệm dạy học hiện đại, nhằm phát huy tính tích cực của học sinh, đồng thời nâng cao chất lượng giáo dục trong các nhà trường. Việc vận dụng kiến thức liên môn trong một môn học, một giờ học là một biện pháp rất hữu ích, nó không những giúp cho người thầy có thêm nhiều kiến thức và phương pháp khác nhau trong một giờ dạy mà còn giúp cho các em học sinh chủ động trong hoạt động học tập, giải quyết các vấn đề và tích hợp kiến thức các môn học để thực hiện học tập tốt môn học đó và áp dụng giải quyết 1 vấn đề bất kỳ có hiệu quả, thông minh với nhiều cách giải quyết khác nhau[1] Việc sử dụng kiến thức liên môn, chủ đề tích hợp sẽ giúp học sinh hiểu được sâu sắc các vấn đề lịch sử, nhận thức được sự phát triển xã hội một cách liên tục, thống nhất, thấy được mối liên hệ hữu cơ giữa các lĩnh vực của đời sống xã hội[2] Việc sử dụng kiến thức liên môn còn giúp học sinh củng cố thêm những hiểu biết của mình ở nhiều môn học khác. HS phải biết đặt các khái niệm đã học trong từng môn học cũng như giữa các môn học khác nhau, có như vậy thì các em mới thực sự làm chủ được kiến thức. Đặc biệt từ việc hình thành được những biểu tượng lịch sử cụ thể, sinh động thông qua vận dụng tích hợp các kiến thức liên môn sẽ tạo nên những gợi cảm mới, tác động mạnh mẽ đến tư tưởng, tình cảm của học sinh, sẽ đem lại hiệu quả tích hợp giáo dục sâu sắc trong nhiều chủ đề theo hướng dẫn của Bộ GD & ĐT. Đổi mới phương pháp dạy học và cải tiến nội dung sách giáo khoa ở THCS là một bước tiến quan trọng của giáo dục Việt Nam nhằm đáp ứng nhu cầu kiến thức cũng như sự phát triển của đất nước trong xã hội ngày nay[3] Những môn học ở THCS đều cung cấp cho học sinh kiến thức và kỹ năng nhất định, tạo ra một hệ thống giáo dục toàn diện giúp cho học sinh nắm vững những tri thức cần thiết để vận dụng vào cuộc sống thực tiễn gần gũi với cuộc sống hằng ngày cũng như tích luỹ vốn kiến thức cho tương lai. Tương tự như những môn học khác của THCS, phần Lịch sử và và các môn học liên quan có một vai trò rất quan trọng trong việc cung cấp cho học sinh về những mốc son về các sự kiện, hiện tượng, nhân vật Lịch sử tiêu biểu theo dòng thời gian từ buổi đầu dựng nước tới nay, hay những sự vật, hiện tượng và các mối quan hệ địa lý đơn giản ở Việt Nam và một số quốc gia trên thế giới. Thông qua những kiến thức đó môn học Lịch sử và các môn học liên quan rèn luyện cho học sinh các kỹ năng cơ bản của việc quan sát và nhận biết các sự vật hiện tượng, các sự kiện Lịch sử để trình bày những hiểu biết của bản thân bằng lời nói và bài viết, biết vận dụng một cách linh hoạt vào thực tiễn của cuộc sống. 2
- Qua đó bồi dưỡng và phát triển cho các em thói quen ham học hỏi, tìm hiểu và xây dựng tình yêu thiên nhiên, yêu tổ quốc. Một trong những mục tiêu trọng điểm của việc vận dụng kiến thức vào thực tiễn cuộc sống đòi hỏi nội dung chương trình môn Lịch sử và các môn học liên quan phải cung cấp cho các em những thông tin, sự kiện hoặc những giá trị về Lịch sử của địa phương, nơi học sinh đang sinh sống. Nhưng cho đến nay nội dung chương trình môn học Lịch sử ở THCS còn rất ít (ở lớp 6 chỉ có 1 tiết/tuần, lới 7có 2 tiết/tuần, còn ở lớp 8,9 có một tiết rưỡi/ tuần nên không đủ cung cấp hết kiến thức cho cho học sinh). Vậy chúng ta phải làm gì để cung cấp thêm cho học sinh những kiến thức về Lịch sử. Nếu xét về góc độ chương trình chính khoá thì các tiết học về lịch sử đã được phân bổ sát với thời gian học tập, không có nội dung trống để giáo viên tiến hành dạy bổ sung. Xét về góc độ hoạt động ngoài giờ thì thời gian cũng không nhiều hoặc một số trường có điều kiện không thuận lợi cho việc triển khai hoạt động ngoại khoá về lịch sử. Ngoài ra học sinh cũng không yêu thích môn học này bởi sự khô khan của môn Lịch sử. Chính vì thế trong quá trình dạy và học về môn Lịch sử tôi đã vận dụng các kiến thức môn học khác để các em yêu thích môn học Lịch sử hơn và đó cũng là lý do mà tôi chọn đề tài “Vận dụng nguyên tắc dạy học liên môn của các môn học khác vào bài dạy những chuyển biến trong đời sống kinh tế- Lịch sử 6” làm sáng kiến kinh nghiệm áp dụng cho mình. - Về nội dung : Lịch sử, Ngữ văn, Địa lý, Giáo dục công dân đều có những nội dung thuộc nhóm Khoa học xã hội nhân văn, đều nghiên cứu những vấn đề của con người, xem xét các mối quan hệ mang tính qui luật trong lĩnh vực kinh tế, xã hội, tuy rằng mỗi môn học có mục tiêu riêng (Lịch sử chú ý đến quá trình hình thành và phát triển của xã hội, địa lí chú ý đến tính không gian lãnh thổ của các sự vật hiện tượng đang diễn ra hiện nay, Ngữ văn hình thành các kỹ năng cho con người về cả tâm hồn lẫn nhân cách, Giáo dục công dân giáo dục cho các em các đức tính, lòng yêu nước của con người). Tuy vậy, giữa chúng có mối quan hệ tác động qua lại với nhau bởi các sự kiện lịch sử bao giờ cũng diễn ra trong một khoảng không gian nhất định với các điều kiện cụ thể, trong đó có các điều kiện địa lí,ngay cả lòng tự hào dân tộc, những sự kiện lịch sử được đưa vào văn chương một cách bóng bẩy, tinh tuý. Bên cạnh đó qua môn Giáo dục công dân giúp các em những đức tính tốt đẹp của con người, qua đó các em biết trân trọng giữ gìn, biết ơn công lao của các bậc cha anh đi trước . Lịch sử thế giới và lịch sử dân tộc (kể cả phần lịch sử địa phương) đều gắn với những điều kiện tự nhiên mà con người sinh sống, gắn với nền văn học của dân tộc cho nên khi học tập lịch sử xã hội phải phân tích đến các yếu tố của môi trường tự nhiên, biết đến sự phát triển của văn học dân tộc cũng như bản tính tốt đẹp của dân tộc Viêt Nam qua các thời kì lịch sử để rồi thông qua nội dung lịch 3
- sử để hiểu rõ hơn môi trường tự nhiên, thực hiện giáo dục môi trường, tạo cơ hội cho văn học Việt Nam phát triển. - Về mặt kỹ năng : Sử dụng các phương tiện trực quan như bản đồ, Atlat, tranh ảnh, thơ văn, giáo dục tình cảm con người - Về mặt phương pháp dạy học: Trong quá trình dạy học, giáo viên Lịch sử, Địa lí, Ngữ văn, Giáo dục công dân vận dụng phương pháp dạy học theo con đường qui nạp, đi từ phân tích các hiện tượng, sự kiện cụ thể, đơn lẻ để dẫn tới những nhận xét, kết luận mang tính khái quát. Đó là lý do mà tôi chọn đề tài “Vận dụng nguyên tắc dạy học liên môn của các môn học khác vào bài dạy những chuyển biến trong đời sống kinh tế- Lịch sử 6” làm sáng kiến kinh nghiệm 1.2: Mục đích nghiên cứu Trong thực tế giảng dạy đa phần học sinh xem môn học này là phụ. Do đó thái độ học sinh chưa tích cực, các em ít chịu khó lắng nghe khi ngồi học dẫn đến kết quả học tập chưa cao. Vì vậy việc giúp các em có thái độ học tập đúng đắn, yêu thích môn học, xóa bỏ khoảng cách môn học chính-phụ là nhiệm vụ rất quan trọng của giáo viên. Xuất phát từ thực tiễn trên cùng với yêu cầu cấp thiết về đổi mới dạy học lịch sử, kết hợp những thử nghiệm trên lớp học ở THCS, tôi nhận thấy nghiên cứu cách thức vận dụng nguyên tắc dạy học liên môn trong dạy học lịch sử để nâng cao hiệu quả bài học là vấn đề có ý nghiã thực tiễn rất cần thiết hiện nay. Trong qua trình giảng dạy lịch sử lớp 6 tôi đã mạnh dạn áp dụng phương pháp dạy học này để đưa lại hiệu quả học tập cao đồng thời phát huy được tính tích cực trong nhận thức của học sinh Đề tài của tôi là“Vận dụng nguyên tắc dạy học liên môn của các môn học khác vào bài dạy những chuyển biến trong đời sống kinh tế- Lịch sử 6” Qua đề tài này tôi muốn làm rõ những vấn đề; -Những tư liệu liên môn cần thiết khi dạy tiết của bài những chuyến biến trong đời sống kinh tế -Phương pháp vận dụng nguyên tắc dạy học lien môn cụ thể qua từng phần trong bài để đạt hiệu quả bài học lịch sử -Phân tích tác dụng của phương pháp vận dụng nguyên tắc dạy học liên môn trong bài để phát huy tính độc lập nhận thức học sinh trên cả mặt: giáo dục, giáo dưỡng, phát triển 1.3: Đối tượng nghiên cứu - Học sinh lớp 6 trường THCS Đông Quang - Đề tài của tôi được nghiên cứu trong thời gian trực tiếp giảng dạy lịch sử lớp 6. 1.4: Phương pháp nghiên cứu Đề tài của tôi được nghiên cứu trong thời gian trực tiếp giảng dạy lịch sử lớp 6. Đồng thời làm phương pháp so sánh, thực nghiệm tính hiệu quả của bài dạy bằng phương pháp dạy học truyền thống với bài dạy vận dụng nguyên tắc dạy học liên môn, cũng khảo sát qua các bài kiểm tra 15 phút, 1 tiết. Kết quả học 4
- sinh hứng thú hơn với cách dạy mới: Vận dụng nguyên tắc dạy liên môn và tỉ lệ học lực khá, giỏi tăng lên Đề tài của tôi chỉ đưa ra cách tiếp cận mới về phương pháp dạy học bằng cách vận dụng nguyên tắc dạy học liên môn trong bài dạy Những chuyển biến trong đời sống kinh tế. Mặc dù cố gắng nhưng còn nhiều hạn chế, tôi mong nhận được đóng góp của đồng nghiệp để đạt hiệu quả cao hơn 1.5: Những điểm mới của SKKN Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực trong độc lập nhận thức của học sinh hiện nay đang là vấn đề được quan tâm hàng đầu. Đặc biệt đối với giáo viên dạy lịch sử hiện nay thực trạng chất lượng môn sử qua các kì thi đạt kết quả thấp. Môn sử được đưa lên bàn cân, là đề tài tranh luận sôi nổi về nguyên nhân dẫn đến chất lượng môn sử thấp? Vấn đề đó trở thành nỗi trăn trở trong nhiều giáo viên dạy lịch sử, vì vậy đổi mới phương pháp dạy học để nâng cao hiệu quả bài học, tăng tính hấp dẫn đối với học sinh dược nhiều giáo viên đặc biệt quan tâm. Nhiều phương pháp dạy học mới được thử nghiệm và đã góp phần nâng cao hiệu quả trong bài học như: dạy học nêu vấn đề, dạy học đàm thoại, sử dụng đồ dùng trực quan, tổ chức hoạt động ngoại khóa Nhưng đổi mới phương pháp dạy học bằng cách vận dụng nguyên tắc dạy học liên môn trong dạy học lịch sử đang còn là phương pháp mới mẻ, chưa phổ biến. Sở dĩ như vậy là do phương pháp dạy học đạt hiệu quả trong bài cao nhưng lại khó với giáo viên. Vì vậy xuất phát từ yêu cầu của nguyên nhân vận dụng dạy học liên môn khá cao, giáo viên vừa vững vàng chuyên môn vừa có kiến thức uyên thâm vững chắc cùng với kĩ năng dạy học các môn lien quan lịch sử như địa lý, văn học, giáo dục công dân Phương pháp dạy học lịch sử phải đạt tới kĩ năng, kĩ xảo mới kết hợp nhuần nhuyễn với phương pháp dạy học đặc trưng của các môn học liên quan khác Nhận thức dạy học lịch sử không chỉ đơn thuần là cung cấp sự kiện khô khan, rời rạc, không phải là vấn đề chính trị hay một cuộc chiến tranh thì giáo viên nào cũng nhận thức được nhưng biến nó thành một sự kiện hấp dẫn đặt nó trong cái nhìn tổng thể thì không phải ai cũng làm được. Vận dụng nguyên tắc dạy học liên môn trong dạy học Lịch sử đố với bài dạy về văn hóa, kinh tế, ôn tập, tổng kết sẽ góp phần nâng cao hiệu quả bài học và phát huy tính tích cực trong độc lập nhận thức của học sinh Khác với chương trình hiện tại, nội dung Lịch sử trong chương trình mới ở bậc THCS sẽ lấy trục lịch đại (thời gian 0) làm trục xuyên suốt, vì thế, ở mỗi giai đoạn lịch sử đều cố gắng thiết kế nội môn theo mô hình: thế giới – khu vực - Việt Nam - lịch sử địa phương, trong đó lấy lịch sử Việt Nam làm trọng tâm, chiếm 60% thời lượng của chương trình. Đây là điểm mới trong cấu trúc, trong tích hợp của phân môn lịch sử. Còn với riêng sáng kiến này bản thân tôi áp dụng và nhận thấy khi áp dụng vào bài dạy “Những chuyển biến trong đời sống kinh tế” học sinh đã biết huy động tổng hợp các kiến thức và kĩ năng từ nhiều lĩnh 5
- vực khác nhau, học sinh để họ có thể đối mặt với những thách thức của cuộc sống, sẽ giảm bớt, tránh được sự trùng lặp không cần thiết về nội dung giữa các môn học, học sinh biết huy động tổng hợp kiến thức, kĩ năng thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau nhằm giải quyết các nhiệm vụ học tập, đời sống; thông qua đó hình thành những kiến thức, kĩ năng mới; phát triển được những năng lực cần thiết, nhất là năng lực giải quyết vấn đề trong học tập và trong thực tiễn cuộc sống. Qua đó hình thành ở học sinh những năng lực giải quyết hiệu quả các tình huống thực tiễn dựa trên sự huy động nội dung, kiến thức, kĩ năng thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Điều đó cũng có nghĩa là đảm bảo để mỗi học sinh biết cáchvận dụng kiến thức học được trong nhà trường vào các hoàn cảnh mới lạ, khó khăn, bất ngờ, qua đó trở thành một người công dân có trách nhiệm, một người lao động có năng lực. 2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1: Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm Hiện nay, dạy học tích hợp là một trong những quan điểm giáo dục đang được quan tâm. Thực hiện tích hợp trong dạy học sẽ mang lại rất nhiều lợi ích cho việc góp phần hình thành và phát triển các năng lực hành động, năng lực giải quyết vấn đề cho học sinh[4]. Tích hợp theo nghĩa chung nhất được hiểu là sự liên kết các thành phần, các bộ phận khác nhau một cách hòa hợp, tương thích trong một tổng thể[5]. Dạy học tích hợp được hình thành trên cơ sở của những quan niệm tích cực về quá trình học tập và quá trình dạy học, thực hiện quan điểm tích hợp trong giáo dục sẽ góp phần phát triển tư duy tổng hợp, năng lực giải quyết vấn đề và làm cho việc học tập trở nên ý nghĩa hơn đối với học sinh so với việc học và thực hiện các mặt giáo dục một cách riêng rẽ[6]. Các sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội vốn không tồn rại một cách rời rạc, đơn lẻ, chúng là những thể tổng hợp, hoàn chỉnh và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau[7] Trong những năm gần đây Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức các cuộc thi: Vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết các tình huống thực tiễn dành cho học sinh và cuộc thi Dạy học theo chủ đề tích hợp dành cho giáo viên trung học. Mục đích: - Khuyến khích học sinh vận dụng kiến thức tổng hợp của các môn học khác nhau để giải quyết các tình huống thực tiễn; tăng cường khả năng vận dụng tổng hợp, khả năng tự học, tự nghiên cứu của học sinh; - Thúc đẩy việc gắn kiến thức lý thuyết và thực hành trong nhà trường với thực tiễn đời sống; đẩy mạnh thực hiện dạy học theo phương châm "học đi đôi với hành"; - Góp phần đổi mới hình thức, phương pháp dạy học và đổi mới kiểm tra, đánh giá kết quả học tập; thúc đẩy sự tham gia của gia đình, cộng đồng vào công tác giáo dục - Khuyến khích giáo viên sáng tạo, thực hiện dạy học theo chủ đề, chủ điểm có nội dung liên quan đến nhiều môn học và gắn liền với thực tiễn; 6
- - Góp phần đổi mới hình thức tổ chức dạy học, đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá kết quả học tập; tăng cường ứng dụng hiệu quả công nghệ thông tin trong dạy học. Thực trạng việc dạy bộ môn nói chung, môn Lịch sử lớp 6 nói riêng mặc dù quan niệm dạy học tích hợp đã được vận dụng vào giảng dạy, song hiệu quả đạt được là chưa cao. Do đó phần lớn học sinh hiện nay có thái độ bình thường, chưa phát huy được tính tích cực trong học tập. Giáo viên trong các nhà trường chưa thực sự hiểu hết ý nghĩa, tầm quan trọng của việc dạy học liên môn, đặc biệt là việc dạy học liên môn trong môn Lịch sử. Quá trình vân dụng tích hợp liên môn vào trong bài dạy còn gặp nhiều lúng túng nên trong quá trình giảng dạy thường chỉ tập trung vào kiến thức đặc thù của bộ môn mà thiếu sự quan tâm, liên hệ với các bộ môn khác. Về phía học sinh xuất hiện tâm lí coi nhẹ, chủ quan trong bộ môn. Các em thường cho rằng kiến thức của bộ môn nhẹ, không có tác dụng nhiều trong việc học tập nên thiếu quan tâm, thậm chí bỏ rơi bộ môn khi thấy mình đã có đủ cơ số điểm cần thiết. Vì vậy nên khi được hỏi, khai thác sâu vào vấn đề các em thường tỏ ra lúng túng hoặc không thể trả lời câu hỏi.Mỗi một bài dạy và học Lịch sử có vai trò quan trọng đối với cả thầy và trò. Để nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy học, tôi lựa chọn đề tài“Vận dụng kiến thức liên môn của các môn học khác vào bài dạy những chuyển biến trong đời sống kinh tế - Lịch sử 6” 2.2: Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng SKKN 2.2.1:Thực trạng của dạy học lịch sử hiện nay Hiện nay việc dạy và học lịch sử trong nhà trường phổ thông hiện còn những tồn tại là nội dung của nhiều bài giảng lịch sử rất khô khan, nhiều sự kiện nên chưa tạo được hứng thú học lịch sử đối với học sinh. Học sinh hiểu một cách rời tạc, nông cạn về kiến thức lịch sử, không nắm được mối liên hệ hữu cơ giữa các tri thức thuộc lĩnh vực đời sống xã hội, về kiến thức liên môn Cụ thể của thực trạng dạy học Lịch sử hiện nay thông qua sơ đồ sau: 7
- THỰC TRẠNG DẠY HỌC LỊCH SỬ HIỆN NAY 1.CHƯƠNG TRÌNH, SGK 2.GIÁO VIÊN 3. HỌC SINH - Coi nặng việc truyền - Ghi nhớ bài - Chương trình : Thiết kế nặng, thụ kiến thức có trong học một cách rời không liên thông giữa các môn SGK (lối dạy nhồi nhét rạc, máy móc. học, cấp học, dẫn đến sự trùng kiến thức để thi cử). - Không nắm lắp một số kiến thức giữa các - Ít vận dụng kiến thức được mối qu an cấp học. liên môn, chủ đề tích hệ giữa các tri - SGK : hợp giáo dục (xem nhẹ thức thuộc lĩnh + Biên soạn theo hướng nặng việc dạy để giúp HS vực đời sống xã về cung cấp kiến thức để thi cử, phát triển những năng hội, về kiến thức ít chú trọng vấn đề bồi dưỡng lực cần thiết nhằm giải liên môn. năng lực cho học sinh. quyết những vấn đề -> Hệ quả: + Thể hiện dưới hình thức một trong thực tiển). nhàm chán, môn khoa học, nên một số kiến -> Hệ quả: dẫn đến không yêu thích thức hàn lâm không thực sự cần tiết dạy khô khan, kém bộ môn Lịch Sử. thiết cho thực tế vẫn được đưa hấp dẫn, nặng về cung vào. cấp kiến thức, liệt kê + Nội dung nhiều bài rất khô sự kiện. Điều này dễ sa khan về kiến thức, thiên về vào lối dạy đọc chép. nhiều sự kiện lịch sử, chiến tranh cách mạng, ít đề cập về lịch sử văn hóa, nghệ thuật, chưa xen kẽ với văn học, khoa học 2.2.2: Thực trạng của dạy học liên môn hiện nay *Thuận lợi: - Đối với giáo viên: +Trong quá trình dạy học môn học của mình, giáo viên vẫn thường xuyên phải dạy những kiến thức có liên quan đến các môn học khác và vì vậy đã có sự am hiểu về những kiến thức liên môn đó hay nói cách khác đội ngũ giáo viên chúng ta đã dạy tích hợp liên môn từ lâu rồi nhưng chúng ta chưa đi sâu và chưa có khái niệm tên gọi cụ thể mà thôi . + Với việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay, vai trò của giáo viên không còn là người truyền thụ kiến thức mà là người tổ chức, kiểm tra, định hướng hoạt động học của học sinh cả ở trong và ngoài lớp học; vì vậy, giáo viên các bộ môn liên quan có điều kiện và chủ động hơn trong sự phối hợp, hỗ trợ nhau trong dạy học. + Trong những năm qua giáo viên cũng đã được trang bị thêm nhiều kiến thức mới về phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực: như phương pháp bàn tay nặn bột hoặc kĩ thuật khăn trải bàn, dạy học theo dự án 8
- + Môi trường " Trường học kết nối rất thuận lợi để giáo viên đổi mới trong dạy tích hợp, liên môn. + Nhà trường đã đầu tư nhiều phương tiện dạy học có thể đáp ứng một phần đổi mới phương pháp dạy học hiện nay. + Sự phát triển của CNTT, sự hiểu biết của đội ngũ giáo viên của nhà trường là cơ hội để chúng ta triển khai tốt dạy học tích hợp, liên môn. - Đối với học sinh: Học sinh có hứng thú tìm hiểu kiến thức các bộ môn nhất là các bộ môn tự nhiên ngày càng nhiều hơn, sách giáo khoa được trình bày theo hướng “ mở ”nên cũng tạo điều kiên, cơ hội cũng như môi trường thuận lợi cho học sinh phát huy tư duy sáng tạo. * Khó khăn - Đối với giáo viên + Giáo viên phải tìm hiểu sâu hơn những kiến thức thuộc các môn học khác. + Vấn đề tâm lý chủ yếu vẫn quen dạy theo chủ đề đơn môn nên khi dạy theo chủ đề tích hợp, liên môn, các giáo viên sẽ vất vả hơn, phải xem xét, rà soát nội dung chương trình, sách giáo khoa (SGK) hiện hành để loại bỏ những thông tin cũ, lạc hậu, đồng thời bổ sung, cập nhật những thông tin mới, phù hợp. Nội dung của phương pháp dạy tích hợp, liên môn cũng yêu cầu GV cấu trúc, sắp xếp lại nội dung dạy học trong chương trình hiện hành theo định hướng phát triển năng lực học sinh nên không tránh khỏi làm cho giáo viên có cảm giác ngại thay đổi. + Điều kiện cơ sở vật chất (thiết bị thông tin ,truyền thông) phục vụ cho việc dạy học trong nhà trường còn nhiều hạn chế nhất là các trường ở nông thôn. - Đối với học sinh: + Dạy tích hợp là cả một quá trình từ tiểu học đến THPT nên giai đoạn đầu này, đặc biệt là thế hệ HS hiện tại đang quen với lối mòn cũ nên khi đổi mới học sinh thấy lạ lẫm và khó bắt kịp. + Do xu thế chọn ngành nghề theo thực tế xã hội nước ta hiện nay và việc quy định các môn thi trong các kì thi tuyển sinh nên đa số các học sinh và phụ huynh kém mặn mà (coi nhẹ) với các môn không thi, ít thi (môn phụ). 2.2.3:Thực trạng của bài dạy nước “Những chuyển biến trong đời sống kinh tế” hiện nay *Thuận lợi - Đối với học sinh: trước hết, các chủ đề liên môn, tích hợp có tính thực tiễn nên sinh động, hấp dẫn, có ưu thế trong việc tạo ra động cơ, hứng thú học tập cho học sinh. Học các chủ đề tích hợp, liên môn, học sinh được tăng cường vận dụng kiến thức tổng hợp vào giải quyết các tình huống thực tiễn, ít phải ghi nhớ kiến thức một cách máy móc. Điều quan trọng hơn là các chủ đề tích hợp, liên môn giúp cho học sinh không phải học lại nhiều lần cùng một nội dung kiến thức ở 9
- các môn học khác nhau, vừa gây quá tải, nhàm chán, vừa không có được sự hiểu biết tổng quát cũng như khả năng ứng dụng của kiến thức tổng hợp vào thực tiễn. - Đối với giáo viên: thì ban đầu có thể có chút khó khăn do việc phải tìm hiểu sâu hơn những kiến thức thuộc các môn học khác. Tuy nhiên khó khăn này chỉ là bước đầu và có thể khắc phục dễ dàng bởi hai lý do: + Một là, trong quá trình dạy học môn học của mình, giáo viên vẫn thường xuyên phải dạy những kiến thức có liên quan đến các môn học khác và vì vậy đã có sự am hiểu về những kiến thức liên môn đó; + Hai là, với việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay, vai trò của 2 giáo viên không còn là người truyền thụ kiến thức mà là người tổ chức, kiểm tra, định hướng hoạt động học của học sinh cả ở trong và ngoài lớp học; vì vậy, giáo viên các bộ môn liên quan có điều kiện và chủ động hơn trong sự phối hợp, hỗ trợ nhau trong dạy học. Như vậy, dạy học theo các chủ đề liên môn không những giảm tải cho giáo viên trong việc dạy các kiến thức liên môn trong môn học của mình mà còn có tác dụng bồi dưỡng, nâng cao kiến thức và kĩ năng sư phạm cho giáo viên, góp phần phát triển đội ngũ giáo viên bộ môn hiện nay thành đội ngũ giáo viên có đủ năng lực dạy học kiến thức liên môn, tích hợp. Thế hệ giáo viên tương lai sẽ được đào tạo về dạy học tích hợp, liên môn ngay trong quá trình đào tạo giáo viên ở các trường sư phạm. *Khó khăn - Đối với giáo viên: Thực trạng việc dạy bộ môn Lịch sử nói chung, bài “những chuyển biến trong đời sống kinh tế” nói riêng mặc dù quan niệm dạy học tích hợp đã được vận dụng vào giảng dạy , song hiệu quả đạt được là chưa cao. Giáo viên trong các nhà trường chưa thực sự hiểu hết ý nghĩa, tầm quan trọng của việc dạy học liên môn, đặc biệt là việc dạy học liên môn trong bài “những chuyển biến trong đời sống kinh tế”. Quá trình vân dụng tích hợp liên môn vào trong bài dạy còn gặp nhiều lúng túng nên trong quá trình giảng dạy thường chỉ tập trung vào kiến thức đặc thù của bộ môn mà thiếu sự quan tâm, liên hệ với các bộ môn khác. -Về phía học sinh: xuất hiện tâm lí coi nhẹ, chủ quan trong bộ môn. Các em thường cho rằng kiến thức của bộ môn nhẹ, không có tác dụng nhiều trong việc học tập nên thiếu quan tâm, thậm chí bỏ rơi bộ môn khi thấy mình đã có đủ cơ số điểm cần thiết. Nếu hơn các em cũng chỉ nắm được các kiến thức cơ bản 10
- trong sách giáo khoa về công cụ sản xuất được cải tiến, thuật luyện kim ra ®êi ; Nghề trồng lúa nước ra đời ở đâu và trong điều kiện nào? Vì vậy nên khi được hỏi, khai thác sâu vào vấn đề các em thường tỏ ra lúng túng hoặc không thể trả lời câu hỏi. Nhưng nếu liên kết những kiến thức giao thoa với môn Lịch sử như Ngữ văn, Địa lí, Giáo dục công dân, Rèn luyện kĩ năng sống, Giáo dục các em tinh thần cảnh giác với kẻ thù trong bất cứ hoàn cảnh nào, giáo dục lòng biết ơn, tự hào, lòng yêu quê hương đất nước để học sinh tiếp thu kiến thức, biết vận dụng kiến thức lịch sử vào cuộc sống và ngược lại từ cuộc sống để giải quyết các vấn đề liên quan đến lịch sử Vận dụng nguyên tắc liên môn trên vào bài dạy này đã kích thích hứng thú học tập trong học sinh giúp các em lĩnh hội bài tốt nhằm nâng cao hiệu quả của bài học. Việc vận dụng phương pháp trên kết hợp với các hình thức dạy học tích cực khác sẽ là lời giải đáp cho bài toán học sinh quay lưng lại với lịch sử, truyền cho các em lòng yêu nước, tự hào với truyền thống dân tộc, từ đó có ý thức hơn trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước. Chính vì thực trạng của dạy học Lịch sử hiện nay, bài “những chuyển biến trong đời sống kinh tế” như vậy nên việc áp dụng dạy học liên môn vào một bài dạy cụ thể là vô cùng quan trọng, nó góp phần nâng cao hiệu quả của việc dạy và học, giúp các em thêm yêu bộ môn Lịch sử và bài “những chuyển biến trong đời sống kinh tế” hơn. 2.3: Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề 2.3.2: Các nguyên tắc tích hợp - Đảm bảo tính mục tiêu: Việc lựa chọn và liên kết các kiến thức, kĩ năng phải nhằm tới mục tiêu giáo dục của lớp học, bài học mà mục tiêu trên hết đó là tạo nên con người có khả năng hành động trên một nền tảng kiến thức, kĩ năng vững chắc - Đảm bảo tính khoa học: Các kiến thức phải khách quan, phản ánh đúng bản chất của sự vật, hiện tượng - Có những nét tương đồng về nội dung, phương pháp của những môn học được được tích hợp để các kiến thức và kĩ năng hỗ trợ cho nhau, giúp người học có thuận lợi trong học tập và vận dụng vào cuộc sống - Đảm bảo tính khả thi: Người học có thể tiếp thu và vận dụng được kiến thức, kĩ năng liên môn, người dạy có các điều kiện tổ chức, hướng dẫn việc học tập - Tránh gò ép, ôm đồm, dàn trải: Phải chấp nhận việc coi các kiến thức của các môn học có liên quan chỉ đóng vai trò công cụ cho nội dung chính. Nội dung và các hoạt động phải được cấu trúc sao cho đáp ứng mục tiêu phát triển các năng lực của người học. 2.3.2: Tìm hiểu chương trình, SGK các môn học khác -> Chọn các nội dung có liên quan đến bộ môn Lịch Sử và bài học này 11
- Như đã trình bày ở phần II, trong chương trình, SGK các môn học khác có rất nhiều nội dung kiến thức có thể tích hợp trong môn Lịch Sử - nhất là môn Văn, Địa Lí, GDCD, Âm Nhạc,Mĩ Thuật . . . Do vậy việc tìm hiểu chương trình, SGK các môn học khác để chọn các nội dung có liên quan đến bộ môn Lịch Sử là việc làm cần thiết không những phục vụ cho việc giảng dạy Lịch Sử của GV mà còn giúp HS liên tưởng, củng cố các kiến thức của các môn học khác. Học sinh biết sử dụng kiến thức của các môn học như Địa lý ( để giới thiệu một số địa điểm trên lược đồ và đặc điểm của địa hình nước ta), Vật lí (để biết được quá trình nấu chảy quặng để lọc ra kim loại ), Ngữ văn (để thấy được vai trò của lúa gạo đối với cuộc sống của con người, qua các câu chuyện, ca dao, tục ngữ .), Âm nhạc (khắc sâu hình ảnh hạt gạo và sự lao động cần cù, vất vả của người lao động) vào nội dung bài học. 2.3.3: Các biện pháp thực hiện khi tích hợp kiến thức liên môn trong bài học Khi tiến hành tích hợp kiến thức liên môn vào bài học giáo viên cần thực hiện các bước sau: a. Khái quát bố cục của bài học Bài học được chia làm 3 phần Phần 1: Tìm hiểu thông tin sự kiện Phần 2: Nội dung bài học: Chia làm 4 nội dung nhỏ: - Nội dung thứ nhất: Công cụ sản xuất được cải tiến - Nội dung thứ hai: Thuật luyện kim ra ®êi - Nội dung thứ ba: Nghề trồng lúa nước ra đời ở đâu và trong điều kiện nào? - Nội dung thứ tư: Vẽ sơ đồ tư duy Phần 3: Bài tập b. Xác định các môn có nội dung kiến thức tích hợp trong từng phần của bài học nước Âu Lạc * Tích hợp môn Địa lí Trước khi vào bài mới, giáo viên giới thiệu về thực trạng cảnh quan nước ta: Thời xa xưa, nước ta là một vùng rừng núi rậm rạp với nhiều hang động, nhiều sông suối, có vùng ven biển dài: khí hậu hai mùa nóng – lạnh rõ rệt, thuận lợi cho cuộc sống của cỏ cây, muông thú và con người. Trong quá trình sinh sống con người từng bước di cư, mở rộng vùng cư trú và đây là thời điểm hình thành những chuyển biến lớn về kinh tế. 12
- Cùng với liên môn Địa lí, giáo viên giới thiệu những địa điểm phát hiện những công cụ được cải tiến vào thời kì này như: Phùng Nguyên (Phú Thọ), Lung Leng (Kon Tum), hay những nơi phát hiện kim loại đầu tiên đó là: Hoa Lộc (Thanh Hóa), Phùng Nguyên (Phú Thọ). Đồng thời giáo viên cũng chỉ rõ cho học sinh thấy được ở Đồng bằng, ven các con sông lớn - nơi có điều kiện đất đai màu mỡ, đủ nước tưới thuận lợi cho nghề nông trồng lúa phát triển. Và GV cũng cho HS thấy được để mở rộng vùng cư trú thì con người cần phải làm gì? Đó chính là sự cải tiến về công cụ lao động. Công cụ lúc đầu của người nguyên thủy là những công cụ đá còn thô sơ, chưa có hình thù rõ ràng, nhưng nhờ quá trình lao động con người ngày càng cải tiến hơn nữa trong kĩ thuật chế tác công cụ: Tiến tới việc mài nhẵn, sắc ở phần lưỡi và có hình dáng cân xứng GV cho HS quan sát một số công cụ: Rìu đá Phùng Nguyên, Hoa Lộc và Lung Leng và so sánh với các công cụ trước đó để thấy được sự tiến bộ trong việc chế tác công cụ của con người thời đó. Và ở thời kì này đồ gốm cũng được phát triển thể hiện ở cách trang trí hoa văn với hình dáng cân xứng. Ở nội dung này giáo viên yêu cầu học sinh thảo luận nhóm và đưa ra nhận xét. Học sinh cũng chỉ ra được: Những công cụ được mài nhẵn, có hình dáng cân xứng, những mảnh gốm có in hoa văn độc đáo. -> Kỹ thuật chế tác công cụ lao động: đạt trình độ cao (mài nhẵn, hình dáng cân đối, sắc bén, dễ làm) - Kĩ thuật làm gốm: đồ gốm ngày càng tiến bộ, hoa văn độc đáo. Từ đó, GV cho HS biết được từ kĩ thuật làm gốm con người đã phát minh ra thuật luyện kim. * Tích hợp môn Vật lí để giải thích Để học sinh hiểu rõ điều này, giáo viên giới thiệu cho học sinh một quy trình làm đồ gốm. Từ việc tìm ra đất sét, nặn thành các hình và đồ dùng cần thiết 13
- sau đó xếp vào lò nung ở nhiệt độ cao để cho ra những sản phẩm theo ý muốn của con người. GVGT: Trong tự nhiên kim loại tồn tại dưới hình thức quặng, nghĩa là không có kim loại nguyên chất, phải nấu chảy quặng mới lọc ra được kim loại, mà muốn nấu chảy quặng phải có độ nóng cao và điều này đã làm được khi người ta đốt lò nung đồ gốm. Sau đó, muốn làm được những công cụ, đồ dùng theo ý mình người ta không thể ghè đẽo kim loại như ghè đẽo đá mà phải làm khuôn đúc bằng đất sét, sau đó nấu chảy kim loại rồi rót vào khuôn để tạo ra các kim lọai hay đồ dùng cần thiết. (Nghề làm gốm đã giúp con người làm được các khuôn đúc đó.) Vì vậy, có thể nói, nghề làm gốm phát triển đã tạo điều kiện phát minh ra thuật luyện kim. GV cho HS thấy được ý nghĩa của việc phát minh ra thuật luyện kim: Thuật luyện kim đã mở ra một thời đại mới trong lĩnh vực chế tạo công cụ của loài người (công cụ bằng kim loại thay thế dần công cụ bằng đá). Làm thay đổi sức sản xuất. Đây là một phát minh to lớn không chỉ đối với người thời đó mà đối với cả thời đại sau và xã hội ngày càng phát triển, máy móc cũng được phát triển cùng với sự phát triển của KHKT. Sau đó GV giới thiệu một phát minh tiếp theo của con người, đó là nghề nông trồng lúa nước. Và cũng cho HS biết được đặc điểm môi trường và quá trình phát triển của cây lúa nước: được trồng chủ yếu ở vùng Đồng bằng, ven sông, ven biển, nơi có đất phù sa màu mỡ, đủ nước tưới cho cây trồng. HS cũng thấy được ý nghĩa to lớn của cây lúa: Lúa là cây lương thực chính của con người. Từ đây con người có thể định cư lâu dài ở những vùng ven sông, ven biển. Ngày nay nhân dân ta phát huy truyền thống cần cù lao động, hăng hái tăng ra sản xuất, lúa không những đủ ăn mà con dư thừa để xuất khẩu. Nước ta xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới sau Thái Lan. 14
- GVGT một số vựa lúa lớn của nước ta: Đồng bằng Sông Hồng, Đồng bằng Sông Cửu Long, Thái Bình, Hưng Yên * Tích hợp môn Ngữ văn GVGT: Để nói tới tầm quan trọng của nghề nông trồng lúa và vai trò của hạt gạo, truyền thuyết bánh chưng, bánh giầy có đoạn viết: “Trong trời đất, không gì quý bằng hạt gạo. Chỉ có gạo mới nuôi sống con người và ăn không bao giờ chán. Các thứ khác tuy ngon, nhưng hiếm, mà người không làm ra được. Còn lúa gạo thì mình trồng lấy, trồng nhiều được nhiều. Hãy lấy gạo làm bánh mà lễ Tiên Vương”. (Trích truyền thuyết Bánh Chưng – Bánh Giầy) Từ xưa, người Việt ta đã làm ra hạt gạo và biết quý trọng hạt gạo, bời vì hạt gạo đã nuôi sống con người. Qua đó, thấy được thái độ đề cao lao động, đề cao nghề nông và đồng thời cũng thể hiện sự tôn kính tổ tiên. * Tích hợp với môn Âm nhạc Âm nhạc là một nguồn suối dồi dào làm giàu thêm đời sống tinh thần cho con người. Chính vì vậy khi kết hợp dạy bài: Những chuyển biến trong đời sống kinh tế với Âm nhạc, vừa giúp tiết học đỡ căng thẳng hơn, vừa khiến học sinh khắc ghi hình ảnh hạt gạo. GV đặt câu hỏi: Em nào thuộc bài thơ: “Hạt gạo làng ta” của nhà thơ Trần Đăng Khoa Nhiều em HS sẽ thuộc bài thơ này và một HS đọc cho cả lớp nghe. GVGT: Nhân dân ta vẫn phát huy truyền thống cần cù lao động, các bác nông dân không quản khó nhọc, một nắng hai sương để làm nên những hạt lúa vàng. Bài thơ: “Hạt gạo làng ta” của Trần Đăng Khoa đã nói lên điều đó. Giáo viên trích một đoạn trong bài thơ: Hạt gạo làng ta Có vị phù sa 15
- Của sông Kinh thầy Có hương sen thơm Trong hồ nước đầy Có lời mẹ hát Ngọt bùi đắng cay Hạt gạo làng ta Có bão tháng bảy Có mưa tháng ba Giọt mồ hôi sa những trưa tháng sáu Nước như ai nấu Chết cả cá cờ Cua ngoi lên bờ Mẹ em xuống cấy Sau đó, GV cho HS cả lớp nghe bài hát “Hạt gạo làng ta”( nhạc sĩ Trần Viết Bình phổ thơ Trần Đăng Khoa). GV bật video bài hát: “Hạt gạo làng ta”, để các em nghe (HS cả lớp có thể hát theo) Khi nghe bài hát, các em sẽ cảm nhận sâu sắc hơn về sự lao động vất vả của người lao động làm nên những hạt lúa vàng. *GV tích hợp giáo dục kĩ năng sống Kĩ năng sống là khả năng điều chỉnh và lựa chọn thái độ và hành vi đúng đắn, có khả năng điều chỉnh nhu cầu của bản thân một cách hợp lý và ứng phó trước những thách thức trong cuộc sống. Ở đây giáo dục cho HS biết nhận xét, đánh giá sự biết ơn đối với người khác. Học sinh bày tỏ thái độ biết ơn, yêu quý những người lao động, quý trọng hạt gạo: sử dụng tiết kiệm, nấu vừa ăn, không lãng phí. * Tích hợp môn Ngữ văn 16
- GVGT: Hãy nâng niu hạt gạo như cha ông xưa đã làm, đã coi đó là vật quý báu nhất của muôn đời, rất linh thiêng và được trân trọng. Ca dao có nói: Ai ơi bưng bát cơm đầy Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần. -> Đó là lời tâm tình và cũng là lời nhắn nhủ của người làm ra lúa gạo với người dùng nó. Sau khi kết thúc tiết học, giáo viên kết luận và tóm tắt nội dung bài học bằng sơ đồ tư duy d. Dưới đây là tóm tắt phương pháp, cách thức vận dụng kiến thức liên môn vào bài dạy. Hoạt động dạy học và tiến trình dạy học cụ thể của tiết học ở phần Giáo án lên lớp và Giáo án PowerPoint * Các phương pháp sử dụng kiến thức liên môn Phương pháp dạy học theo hướng tích hợp là lồng ghép nội dung tích hợp vào các bài dạy, tùy theo từng môn học mà lồng ghép tích hợp ở các mức độ như liên hệ, lồng ghép bộ phận hay là toàn phần,( Phần nội dung bài học, phần bài tập hay là tổng kết toàn bài ) Khi tích hợp giáo viên cần sử dụng ngôn từ kết nối sao cho lô gic và hài hòa từ đó giáo dục và rèn kĩ năng sống, giá trị sống cho học sinh. - Để nâng cao hiệu quả của môn học tích hợp, giáo viên có thể sử dụng một số phương pháp để dạy học tích hợp như sau: + Dạy học theo dự án. + Phương pháp trực quan. + Phương pháp thực địa. + Phương pháp dạy học đặt và giải quyết vấn đề. + Phương pháp khăn trải bàn . . . . . . Trong các phương pháp trên, tôi sử dụng phương pháp thứ tư đó là: Phương pháp dạy học đặt và giải quyết vấn đề. Phương pháp dạy học đặt và giải quyết vấn đề là phương pháp dạy học trong đó GV tạo ra những tình huống có vấn đề, điều khiển HS phát hiện vấn đề, hoạt động tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo để giải quyết vấn đề và thông qua đó chiếm lĩnh tri thức, rèn luyện kĩ năng và đạt được những mục đích học tập khác. Đặc trưng cơ bản của phương pháp dạy học đặt và giải quyết vấn là “tình huống gợi vấn đề” vì “Tư duy chỉ bắt đầu khi xuất hiện tình huống có vấn đề”. 17
- - Xác định vị trí, tầm quan trọng của bộ môn liên môn Kiến thức các môn Ngữ văn, Địa lý, Giáo dục công dân, Nhạc, Vật lý, Giáo dục kĩ năng sống sẽ giúp HS nắm được kiến thức cơ bản một cách sâu sắc, sinh động và hiệu quả cao hơn - Xác định địa chỉ, kiến thức liên môn cần cho bài dạy GV cần xác định rõ bài, mục, ý cần bổ sung kiến thức liên môn lựa chọn những câu, đoạn, tác phẩm (văn học) phù hợp với kiến thức lịch sử cần chuyển tải, khắc sâu đối với học sinh. Trong bài này các phần, mục, ý cần đưa kiến thức liên môn đó là: + Ý 3,5,6,7 của mục 2 + Phần Tổng kết bài + Phần sơ kết bài - Hiểu được hoàn cảnh ra đời của tác phẩm, hiểu tác giả, hiểu văn bản (ít nhất là về mặt nội dung, ngữ nghĩa). Có như vậy mới vận dụng đúng địa chỉ, làm cho bài học có hiệu quả cao, giúp các em có thể tự tìm ra phần kiến thức trọng tâm sau khi tìm hiểu *Kiểm tra đánh giá kết quả học tập a- Kiểm tra đánh giá miệng - GV kiểm tra trước khi vào bài mới Đến lớp, trước khi vào bài mới GV kiểm tra việc chuấn bị các kiến thức liên môn mà GV đã giao cho HS sưu tầm từ tiết trước của HS. Đánh giá, cho điểm những HS có sự chuẩn bị bài tốt, nhắc nhở, phê bình những HS chưa hoàn thành hay chưa chuẩn bị đủ - GV kiểm tra trong khi hướng dẫn HS tiếp thu kiến thức bài mới Vào bài mới GV giảng bài bình thường. Đến phần nào cần kiến thức liên môn, GV gọi một vài HS nêu sự chuẩn bị bài của mình, sau đó cho 1 HS khác nhận xét, GV nhận xét, kết luận và cho điểm. Cuối giờ GV thu bài chuẩn bị của HS để kiểm tra và đánh giá việc chuẩn bị bài của HS vào tiết sau b- Kiểm tra đánh giá viết 18
- Đây là hình thức kiểm tra, đánh giá qua các bài kiểm tra của HS: Nghề nông trồng lúa nước ra đời có ý nghĩa như thế nào đối với đời sống con người? ? Tìm nội dung một bài hát liên quan đến nghề nông? (Môn Nhạc) Thời gian: 5 phút. * Yêu cầu HS trả lời được Nghề nông trồng lúa nước ra đời có ý nghĩa như thế nào đối với đời sống con người +Cư dân Việt Cổ sống ở đồng bằng ven sông, ven biển + Sử dụng cuốc đá mài nhẵn . Thấy vết gạo cháy , có đồ đựng lớn : Vò, bình + Việt Nam là quê hương của cây lúa + Nghề nông trồng lúa ra đời, cuộc sống của con người ổn định hơn . Vùng đồng bằng các con sông lớn trở thành nơi sinh sống lâu dài của con người -Tìm nội dung một bài hát liên quan đến nghề nông: “Hạt gạo làng ta” “ Hạt gạo làng ta Có vị phù xa Em vui em hát hạt vàng làng ta” - Qua bài hát: “Hạt gạo làng ta” của Trần Viết Bình em hiểu: Đất nước Việt Nam - cái nôi của nền văn minh lúa nước, bên mỗi xóm thôn bản làng, những cánh đồng xanh thẳm trải dài tít tận chân mây như dấu hiệu cho mọi du khách nhận ra đất nước nông nghiệp với sự gắn bó của con người cùng cây lúa xanh tươi. Lúa là cách gọi thông thường không biết tự bao giờ trong từ điển Việt Nam, để chỉ loài cây lương thực chính trong ươm mầm từ những hạt thóc vàng căng mẩy. Hạt thóc ngâm nước ủ lên mầm gieo xuống lớp bùn sếch sang trở thành những cây mạ xanh non. Sau khi làm đất cày bừa kĩ, mạ non được bó lại như thằng bé lên ba con còn theo mẹ ra đồng và được cắm xuống bùn sâu qua bàn tay chăm sóc của người nông dân từng ngày, từng giờ lên xanh tươi tốt thành những ruộng lúa mênh mông bờ nối bờ thăm thẳm. 19
- Năm tháng trôi qua bước sang thế kỉ XXI, Việt Nam đi dần vào xu thế công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhưng hình ảnh cây lúa và giá trị tiềm năng của nó vẫn là vị trí số một trong quá trình phát triển đất nước chẳng thế mà nó được lấy làm biểu tượng của các nước trong khối ASEAN như một báu vật quý GIÁO ÁN ÁP DỤNG CHƯƠNG II THỜI ĐẠI DỰNG NƯỚC : VĂN LANG – ÂU LẠC Tiết 11. Bài 10: NHỮNG CHUYỂN BIẾN TRONG ĐỜI SỐNG KINH TẾ I. MỤC TIÊU BÀI HỌC 1. Kiến thức Giúp HS hiểu được những chuyển biến lớn có ý nghĩa hết sức quan trọng trong đời sống kinh tế của người nguyên thuỷ - Nâng cao kỹ thuật mài đá. - Phát minh thuật luyện kim. - Phát minh nghề nông trồng lúa nước. 2. Tư tưởng, tình cảm: Nâng cao tinh thần sáng tạo trong lao động. 3. Kỹ năng: Bồi dưỡng kỹ năng nhận xét, so sánh, liên hệ thực tế. II. CHUẨN BỊ 1. Giáo viên - Ứng dụng CNTT: Sử dụng phần mềm soạn giảng để trình chiếu các Slide minh hoạ nội dung kiến thức từng phần cần truyền đạt cho học sinh. - Lược đồ Việt Nam. - Tranh ảnh có liên quan đến bài học. - Video bài hát: “Hạt gạo làng ta”( nhạc sĩ Trần Viết Bình phổ thơ Trần Đăng Khoa). 2. Học sinh - Chuẩn bị trước bài. - Sưu tầm các câu ca dao, tục ngữ, bài hát nói về hạt lúa, hạt gạo . III. TIẾN TRÌNH LÊN LỚP: 20
- 1. Ổn định lớp: 2. Kiểm tra bài cũ ? Em hãy cho biết người nguyên thủy sinh sống chủ yếu ở đâu? HS: Sống trong các hang động, mái đá, trong những khu rừng rậm rạp.( vì lúc đó, cuộc sống của họ chủ yếu phụ thuộc vào thiên nhiên.) ? Nhưng có phải nước ta chỉ có đồi núi? HS: Nước ta còn có đồng bằng, ven sông, ven biển GVKL: *GV Tích hợp môn địa lí và yêu cầu HS quan sát lược đồ (giới thiệu cảnh quan nước ta) GVGT vị trí địa lí nước ta: Thời xa xưa, nước ta là một vùng rừng núi rậm rạp với nhiều hang động, nhiều sông suối, có vùng ven biển dài: khí hậu hai mùa nóng -lạnh rõ rệt, thuận lợi cho cuộc sống của cỏ cây, muông thú và con người Lược đồ: Cảnh quan nước ta 3. Bài mới GV giới thiệu bài: Đất nước ta không phải chỉ có rừng núi, mà còn có đồng bằng, đất ven sông, ven biển. Trong quá trình sinh sống con người từng bước di cư, mở rộng vùng cư trú và đây là thời điểm hình thành những chuyển biến lớn về kinh tế. Cuộc sống của họ có những chuyển biến gì, cô trò cùng tìm hiểu bài mới. 21
- HS quan sát hình 28,29,30 và công cụ đá chế bản 1- Công cụ sản xuất được cải tiến. Thuật luyện kim ra ®êi Đồng bằng sông Hồng ? Trong quá trình sinh sống người nguyên thuỷ đã mở rộng vùng cư trú như thế nào ? - Một số dừng lại ở chân núi, thung lũng Số khác chuyển xuống vùng đất bãi ven sông. ? Công cụ sản xuất của người nguyªn thủy có những gì ? - Công cụ s¶n xuất có : + Rìu đá có vai, mài 22
- ĐỒ GỐM nhẵn hai mặt + Lưỡi đục, bàn mài đá và mảnh cưa đá + Công cụ bằng xương, sừng nhiều hơn + Chì lưới bằng đất nung Ñoà goám Hoa Lộc Bình gốm -Phùng Nguyên Đồ trang sức Vòng tay, khuyên tai đá Đồ trang sức bằng vỏ sò, ốc ? Công cụ này tìm thấy ở đâu ? Thời gian nào ? Gv dùng lược đồ để chỉ cho HS thấy rõ những nơi có di chỉ GV: Tích hợp môn địa lí: Để xác định vị trí các địa điểm trên lược đồ GVGT vị trí các địa điểm trên lược đồ. 23
- Bài 10: NHỮNG CHUYỂN BIẾN TRONG ĐỜI SỐNG KINH TẾ PHÙNG NGUYÊN HOA LỘC LUNG LENG Lược đồ: Một số di chỉ khảo cổ ở Việt Nam - Đồ trang sức, đồ gốm ? Ngoài công cụ sản xuất người Việt Cổ còn làm nhiều hơn thêm những gì ? ? Những chi tiết ấy chứng tỏ điều gì ? (Để nâng cao đời sống người Việ Cổ phải liên tục cải tiến công cụ sản xuất ? ? Đồ đồng xuất hiện như thế nào ? - Người Phùng Nguyên, Hoa Lộc tìm thấy quặng kim loại ( Đồng ). Thuật luyện kim ra đời, đồ đồng xuất hiện Lưỡi cày đồng Công cụ đồng 24
- ? Em hiểu như thế nào là thuật luyện kim ? - Làm ra những công cụ theo ý muốn. Năng suất ?Thuật luyện kim ra đời có ý nghĩa như thế nào ? lao động cao, cuộc sống của con người ngày càng được đảm bảo *GV tích hợp môn Vật lí để giải thích quá trình lọc quặng trong tự nhiên ra kim loại. GV: Để học sinh hiểu rõ điều này, giáo viên giới thiệu cho học sinh một quy trình làm đồ gốm. Từ việc tìm ra đất sét, nặn thành các hình và đồ dùng cần thiết sau đó xếp vào lò, nung ở nhiệt độ cao để cho ra những sản phẩm theo ý muốncủa con người. Hiện nay nhiều làng gốm nổi tiếng ở nước ta: Bát Tràng (Hà Nội), Thổ Hà (Bắc Ninh), Chu Đậu (Hải Dương), GVGT: Trong tự nhiên kim loại tồn tại dưới hình thức quặng, nghĩa là không có kim loại nguyên chất, phải nấu chảy quặng mới lọc ra được kim loại, mà muốn nấu chảy quặng phải có độ nóng cao và điều này đã làm được khi người ta đốt lò nung đồ gốm. Sau đó, muốn làm được những công cụ, đồ dùng theo ý mình người ta không thể ghè đẽo kim loại như ghè đẽo đá mà phải làm khuôn đúc bằng 25
- đất sét, sau đó nấu chảy kim loại rồi rót vào khuôn để tạo ra các kim lọai hay đồ dùng cần thiết. (Nghề làm gốm đã giúp con người làm được các khuôn đúc đó.) Vì vậy, có thể nói, nghề làm gốm phát triển đã tạo điều kiện phát minh ra thuật luyện kim. GVKL: Thuật luyện kim đã mở ra một thời đại mới trong lĩnh vực chế tạo công cụ của loài người (công cụ bằng kim loại thay thế dần công cụ bằng đá). -> Làm thay đổi sức sản xuất. Đây là một phát minh to lớn không chỉ đối với người thời đó mà đối với cả thời đại sau và xã hội ngày càng phát triển, máy móc cũng được phát triển cùng với sự phát triển của KHKT. 2- Nghề trồng lúa GV chuyển ý: Bên cạnh việc phát minh ra thuật nước ra đời ở đâu và luyện kim, nghề nông trồng lúa ra đời. trong điều kiện nào HS thảo luận nhóm câu hỏi sau : - Cư dân Việt Cổ sống ở ? Cư dân Việt Cổ sống ở đâu? đồng bằng ven sông, ven biển - Sử dụng cuốc đá mài ?Những dấu tích nào chứng tỏ người Việt Cổ đã nhẵn . Thấy vết gạo phát minh ra nghề trồng lúa ? cháy , có đồ đựng lớn : Vò, bình 26
- GVKL: Phát minh này có ý nghĩa cực kì quan trọng đối với đời sống con người, lúa gạo là nguồn lương thực chính của người việt Nam chúng ta. Phát minh ra nghề nông, con người cũng chủ động hơn trong trồng trọt và tích lũy lương thực. Từ đó con người có thể yên tâm, định cư lâu dài, xây dựng xóm làng, đồng thời là cơ sở để tạo nên sự chuyển biến to lớn về xã hội. *Tích hợp với môn Địa lí để cho HS thấy rõ nghề nông trồng lúa ra đời ở Đồng bằng, ven các con sông lớn. 27
- - Việt Nam là quê HS thảo luận xong 1 nhóm trả lời, 1 HS khác nhận hương của cây lúa xét ?Những chi tiết ấy có ý nghĩa như thế nào ? 28
- BÀI 10: NHỮNG CHUYỂN BIẾN TRONG ĐỜI SỐNG KINH TẾ QUÁ TRÌNH THUẦN HÓA GIỐNG LÚA Lúa hoang Lúa nửa hoang Lúa trồng Nghề nông trồng lúa ra đời . - Nghề nông trồng lúa ra đời, cuộc sống của con người ổn định hơn . ? Nghề nông trồng lúa ra đời có ý nghĩa như thế -Vùng đồng bằng các nào đối với đời sống của con người ? con sông lớn trở thành *Tích hợp môn địa lí, GV giới thiệu một số địa nơi sinh sống lâu dài điểm: Vựa lúa lớn của nước ta: Đồng bằng sông của con người Hồng, Đồng bằng sông Cửu Long. - Thái Bình cũng được biết đến với quê 29
- hương của “Chị hai 5 tấn”, hiện nay cùng với Nam Định, Hưng Yên đã trở thành vựa lúa lớn nhất miền bắc nước ta. GV: Nước ta xuất khẩu gạo đứng thứ 2 trên thế giới (sau Thái Lan) GVGT Hình ảnh: Đồng lúa, xuất khẩu gạo của VN. HS quan sát hình ảnh. *Tích hợp môn Ngữ văn. GVGT: Để nói tới tầm quan trọng của nghề nông trồng lúa và vai trò của hạt gạo, truyền thuyết bánh chưng, bánh giầy có đoạn viết: “Trong trời đất, không gì quý bằng hạt gạo. Chỉ có gạo mới nuôi sống con người và ăn không bao giờ chán. Các thứ khác tuy ngon, nhưng hiếm, mà người không làm ra được. Còn lúa gạo thì mình trồng lấy, trồng nhiều được nhiều. Hãy lấy gạo làm bánh mà lễ Tiên Vương”. (Trích truyền thuyết Bánh Chưng – Bánh Giầy) GVGT: Từ xưa, người Việt ta đã làm ra hạt gạo và biết quý trọng hạt gạo, bời vì hạt gạo đã nuôi sống con người. Qua đó, thấy được thái độ đề cao lao động, đề cao 30
- nghề nông và đồng thời cũng thể hiện sự tôn kính tổ tiên. *GV tích hợp với môn Âm nhạc Âm nhạc là một nguồn suối dồi dào làm giàu thêm đời sống tinh thần cho con người. Chính vì vậy khi kết hợp dạy bài: Những chuyển biến trong đời sống kinh tế với Âm nhạc, vừa giúp tiết học đỡ căng thẳng hơn, vừa khiến học sinh khắc ghi hình ảnh hạt gạo. GV có thể hỏi em nào thuộc bài thơ: “Hạt gạo làng ta” của nhà thơ Trần Đăng Khoa .Nhiều em HS sẽ thuộc bài thơ này và một HS đọc cho cả lớp nghe. GVGT: Nhân dân ta vẫn phát huy truyền thống cần cù lao động, các bác nông dân không quản khó nhọc, một nắng hai sương để làm nên những hạt lúa vàng. Bài thơ: “Hạt gạo làng ta” của Trần Đăng Khoa đã nói lên điều đó. GV cho HS cả lớp nghe bài hát “Hạt gạo làng ta”( nhạc sĩ Trần Viết Bình phổ thơ Trần Đăng Khoa). Khi nghe bài hát, HS sẽ cảm nhận sâu sắc hơn về sự lao động vất vả của người lao động làm nên những hạt lúa vàng. GV tích hợp giáo dục kĩ năng sống. Kĩ năng sống là khả năng điều chỉnh và lựa chọn thái độ và hành vi đúng đắn, có khả năng điều chỉnh nhu cầu của bản thân một cách hợp lý và ứng phó trước những thách thức trong cuộc sống. Ở đây giáo dục cho HS biết nhận xét, 31
- đánh giá sự biết ơn đối với người khác. GV đặt câu hỏi: Qua đó các em có thái độ ntn đối với những người lao động làm nên những hạt gạo? HS: Tỏ thái độ biết ơn, yêu quý những người lao -Chăn nuôi, đánh cá động, quý trọng hạt gạo: sử phát triển dụng tiết kiệm, nấu vừa ăn, không lãng phí. -Trước đây cuộc sống bấp bênh, phụ thuộc vào ?Cùng với sự phát triển của nghề nông trồng lúa, thiên nhiên. Giờ đây nghề nào cũng được phát triển theo? con người có cuộc sống ổn định ? Em hãy so sánh cuộc sống của con người - Ven các sông lớn, trước đây và sau khi có nghề nông trồng lúa đất đai màu mỡ, nguồn nước? nước dồi dào, thức ăn phong phú ? Vì sao từ đây con người có thể định cư lâu - Công cụ sản xuất ngày dài ở đồng bằng ven các con sông lớn? càng cải tiến -> Năng suất lao động ? Công cụ sản xuất thời kì này như thế nào? Có ý tăng, của cải làm ra nghĩa gì? ngày càng nhiều. *GV tích hợp môn Ngữ văn GVGT: Hãy nâng niu hạt gạo nhý cha ông xýa ðã làm, đã coi đó là vật quý báu nhất của muôn đời, rất linh thiêng và được trân trọng. Ca dao có nói: Ai ơi bưng bát cơm đầy Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần. -> Đó là lời tâm tình và cũng là lời nhắn nhủ của người làm ra lúa gạo với người dùng nó. * GV tiểu kết mục 3 4. Sơ kết bài GVKL và tóm tắt nội dung bài học bằng sơ đồ tư duy. 32
- GV kết luận toàn bài: Trên bước đường sản xuất để nâng cao cuộc sống, con người đã biết: sử dụng những ưu thế của đất đai. Tạo ra hai phát minh lớn: thuật luyện kim và nghề nông trồng lúa nước đồng thời đó cùng là cơ sở tạo nên những chuyển biến lớn về xã hội. Một cuộc sống mới bắt đầu, chuẩn bị cho con người bước sang thời đại mới – thời đại dựng nước: Văn Lang-Âu Lạc 5. Củng cố - Những công cụ sản xuất được cải tiến như thế nào ? - Việc phát minh ra thuật luyện kim có ý nghĩa gì ? - Sự ra đời của nghề nông trồng lúa nước có tầm quan trọng ra sao ? - Cho biết sự đổi thay trong đời sống kinh tế của con người trong thời kỳ này so với người thời Hoà Bình – Bắc Sơn? (Thời kỳ này k/tế chủ yếu là nông nghiệp ) - Hãy sưu tầm một số câu ca dao, câu truyện nói về cây lúa ở Việt Nam?(Tích hợp môn ngữ văn và HS tìm) 6. HDVN 33
- - Học bài. - Làm các bài tập trong SGK - Và giao nhiệm vụ cho học sinh làm những câu hỏi sau: 1. Theo em, thời nguyên thủy con người đã có những phát minh lớn nào? 2. Nghề nông trồng lúa nước ra đời có ý nghĩa như thế nào đối với đời sống con người? 3. Theo em việc tích hợp liên môn trong học tập có lợi ích gì? - Đọc nghiên cứu bài 11: Những chuyển biến về xã hội. Tìm hiểu kĩ: + Sự phân công lao động đã được hình thành như thế nào? + Xã hội có gì đổi mới. + Bước phát triển mới về xã hội được nảy sinh như thế nào? 2.4: Hiệu quả của SKKN Việc áp dụng kiến thức liên môn là một nội dung phong phú, vì vậy khi vận dụng kiến thức liên môn Lịch sử, Địa lý, Ngữ văn, Giáo dục công dân Vào bài dạy “Những chuyển biến trong đời sống kinh tế” bản thân tôi nhận thấy - Với học sinh, các kiến thức liên môn áp dụng trong bài học sẽ tạo hứng thú cho các em để các em vừa hiểu được nội dung bài học lại vừa hiểu thêm những kiến thức của các môn học khác, đồng thời có thể vận dụng các kiến thức đó để giải quyết các vấn đề trong thực tiễn, từ đó các em phát triển toàn diện hơn về mọi mặt: đức- trí- thể- mĩ. Phương pháp dạy học này chú trọng tập dượt cho học sinh vận dụng các kiến thức kĩ năng học được cho quá trình học tập tiếp theo, vận dụng được kiến thức đã học để giải quyết các tình huống thách thức, bất ngờ, chưa từng gặp. Điều này có ích cho cuộc sống sau này làm công dân, làm người lao động, làm cha mẹ, có năng lực sống tự lập. Ngoài ra góp phần phát triển tư duy liên hệ, liên tưởng ở học sinh, tạo cho học sinh một thói quen trong tư duy, lập luận tức là khi xem xét một vấn đề phải đặt chúng trong một hệ quy chiếu, từ đó mới có thể nhận thức vấn đề một cách thấu đáo. - Với giáo viên, việc vận dụng kiến thức liên môn trong hoạt động dạy học đã được được người giáo viên thực hiện thường xuyên khi liên hệ và tích hợp bộ môn và đã đạt được những kết quả rất khả quan, lôi cuốn được các em tham gia. Để sử dụng được phương pháp này cho phù hợp với đặc điểm từng môn học đòi hỏi người giáo viên cần có kiến thức và thời gian nghiên cứu bài dạy để phù hợp với nội dung của bài. 34
- Vì vậy dạy học vận dụng kiến thức liên môn giúp cho giờ học sẽ trở nên sinh động hơn, không chỉ có giáo viên là người trình bày mà học sinh cũng tham gia vào quá trình tiếp nhận kiến thức từ đó phát huy tính tích cực của học sinh. Từ đó giáo viên rút ra 2 cách kiểm tra, đánh giá học sinh là: * Kiểm tra, đánh giá miệng - HS tự giác, chủ động, tiếp thu các kiến thức cơ bản - HS được phát huy tính tích cực thể hiện ở việc xây dựng bài có sự sáng tạo - Phần GV giao về nhà sưu tầm tài liệu, để phục vụ nội dung bài học đầy đủ - Giảng bài mới: Những khi cần có kiến thức liên môn, GV yêu cầu HS đưa tư liệu, nhận xét hoặc trình bày suy nghĩ của mình, HS đều đáp ứng yêu cầu của GV và mục tiêu của bài học * Kiểm tra đánh giá viết Sau khi giao nhiệm vụ về nhà cho học sinh, một tuần sau, giáo viên thu bài của các em. Nhìn chung đa số các em nắm được và làm được bài, đặc biệt với câu hỏi: Việc tích hợp liên môn trong học tập có lợi ích gì? Đa số các em rất thích và cho rằng việc học tập liên môn giúp các em hiểu sâu sắc hơn kiến thức của các môn học nói chung và môn lịch sử nói riêng và tôi cũng nhận thấy các em có hứng thú, say mê với môn học này hơn. * Cụ thể kết quả đạt được như sau: Sĩ số Loại Giỏi Khá Trung bình Yếu- kém 59 17 23 19 0 Học sinh đoạt giải học sinh giỏi cấp huyện,tỉnh : + Năm học 2015 – 2016 : 2 giải ba cấp huyện; 1 giải KK cấp tỉnh + Năm học: 2016 -2017 : 3 giải KK cấp huyện ; 1 giải KK cấp tỉnh 3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 3.1: Kết luận Dạy học liên môn là sự vận dụng những nội dung và phương pháp các lĩnh vực, các môn học có liên quan để nhằm tăng hiệu quả dạy học Lịch sử và làm sáng tỏ những kiến thức mà học sinh được học trong mỗi bộ môn. Việc dạy học liên môn làm cho các em nhận thức sự phát triển của xã hội một cách liên tục, thống 35
- nhất, mối liên hệ hữu cơ giữa các lĩnh vực của đời sống xã hội, hiểu được tính toàn diện của xã hội. Điều này khắc phục được tính tản mạn trong kiến thức của học sinh Qua việc áp dụng phương pháp dạy học liên môn vào một chủ đề nhất định, tôi nhận thấy học sinh đã phát huy được tính tích cực, chủ động, hiểu bài và hứng thú hơn với bộ môn Lịch sử. Nếu các giờ dạy học môn Lịch sử đều áp dụng được phương pháp liên môn, tôi tin rằng giờ học sẽ không còn khô khan và sẽ tạo được niềm yêu thích bộ môn đối với học trò. 3.2: Kiến nghị * Đối với nhà trường: - Các phương tiện kĩ thuật hỗ trợ việc dạy học như máy chiếu, máy tính cần được sử dụng rộng rãi hơn nữa. - Cần trang bị các phòng học bộ môn để giáo viên được thường xuyên sử dụng ứng dụng trong dạy học. * Đối với phòng giáo dục - Cần tăng cường các buổi chuyên đề, ngoại khóa để giáo viên có cơ hội học hỏi, rút kinh nghiệm Xin chân thành cám ơn ! XÁC NHẬN CỦA BGH NHÀ TRƯỜNG Thanh Hoá, ngày 10 / 03 / 2018 Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép, copy của người khác NGƯỜI VIẾT Phạm Khánh Hoà 36
- TÀI LIỆU THAM KHẢO [1,2,3] Tài liệu hướng dẫn dạy học tích hơp trong dạy học lịch sử ở trường THPT của S. TS Đỗ Hồng Thái- ĐHSP Thái Nguyên [4,5,6] Hình thành năng lực dạy học tích hợp cho GV THPT của PGS-TS Nguyễn Phúc Chỉnh- ĐHSP Thái Nguyên [7].Nghiên cứu dạy học tích hợp liên môn: những yêu cầu đặt ra trong việc xây dựng, lựa chọn nội dung và tổ chức dạy học Đỗ Hương Trà- Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 37
- DANH MỤC CÁC SKKN ĐÃ ĐƯỢC XẾP LOẠI ST TÊN SKKN XẾP LOẠI NĂM T 1 Đổi mới phương pháp dạy học trong một số giờ B- huyện 2009- dạy Lịch sử địa phương ở THCS 2010 2 Vận dụng kỹ thuật sơ đồ tư duy trong dạy học B- huyện 2012- Lịch sử 8 2013 3 Vận dụng kiến thức liên môn Lịch sử, Địa lý, Ngữ C- tỉnh 2014- văn, giáo dục công dân vào bài dạy nước Âu Lạc 2015 môn Lịch sử 6 4 Vận dụng nguyên tắc dạy học liên môn của các A-huyện 2017- môn học khác vào bài dạy những chuyển biến 2018 trong đời sống kinh tế- Lịch sử 6 38